Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị hai động cơ dieselGermaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điệnAEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
U-79 khởi hành từ Lorient vào ngày 21 tháng 7, 1941 cho chuyến tuần tra thứ hai để hoạt động ngoài khơi vịnh Biscay và bờ biển Bồ Đào Nha.[4] Nó đã tham gia cùng bảy tàu U-boat khác nhằm tấn công Đoàn tàu OG 69, và đã đánh chìm chiếc tàu buôn Anh Kellwyn 1.459 GRT ở vị trí khoảng 350 nmi (650 km) về phía Tây Bắc mũi Finisterre, Tây Ban Nha vào ngày 27 tháng 7.[9] Đến ngày 12 tháng 8, chiếc tàu ngầm bị các tàu hộ tống một đoàn tàu vận tải tấn công bằng mìn sâu ngoài khơi bờ biển Bồ Đào Nha và bị hư hại, nên phải kết thúc sớm chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ Lorient vào ngày 16 tháng 8.[2][10]
Chuyến tuần tra thứ ba
Chuyến tuần tra thứ ba của U-79 trong vịnh Biscay chỉ kéo dài năm ngày (từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 9).[4]
Khởi hành từ Salamis vào ngày 29 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ năm, U-79 tiếp tục hoạt động dọc bờ biển Libya và Ai Cập.[4] Vào ngày 6 tháng 12, nó phóng một loạt bốn quả ngư lôi tấn công thiết giáp hạmHMS Queen Elizabeth nhưng đều không trúng đích, và quay trở lại Salamis vào ngày 8 tháng 12 mà không đánh chìm được mục tiêu nào.[13]
Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN0394588398.
Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN1-55750-186-6.