Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ dieselGermaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-302 chuyển căn cứ hoạt động từ Kiel đến cảng Bergen, Na Uy trong tháng 12, 1942, trước khi xuất phát từ cảng này vào ngày 2 tháng 1, 1943 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó hoạt động tại khu vực biển Na Uy, rồi kết thúc chuyến tuần tra tại cảng Narvik, Na Uy vào ngày 6 tháng 1.[5]
Chuyến tuần tra thứ hai, thứ ba và thứ tư
U-302 sau đó xuất phát từ Narvik lần lược cho các chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 10 đến ngày 29 tháng 1, [6] chuyến thứ ba từ ngày 2 đến ngày 21 tháng 2, [7] và chuyến thứ tư từ ngày 15 tháng 3 đến ngày 17 tháng 4.[8] Chiếc tàu ngầm đã hoạt động trong biển Barents và biển Greenland, nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào.
Chuyến tuần tra thứ năm
Sau khi chuyển căn cứ hoạt động từ Narvik đến Trondheim vào cuối tháng 4, và sau đó đến Hammerfest vào cuối tháng 5, U-302 khởi hành từ đây vào ngày 9 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ năm để hoạt động chung quanh đảo Bear và vùng biển phía Tây Svalbard. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại Narvik vào ngày 19 tháng 7.[9]
^Hofmann, Markus. “U 302”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2024.
^Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-302”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2024.
Thư mục
Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN1-55750-186-6.
Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN0-85177-593-4.
Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN1-85409-515-3.
Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN978-1848322103.
Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN1-85780-072-9.
Liên kết ngoài
Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-302”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2024.
Hofmann, Markus. “U 302”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2024.