U-boat Type IX là một lớp tàu ngầm do Hải quân Đức Quốc xã thiết kế vào các năm 1935 và 1936 như những tàu ngầm vượt đại dương, dành cho những chuyến tuần tra kéo dài cách xa căn cứ. Những chiếc Type IX đã từng được sử dụng cho những chuyến tuần tra tận vùng bờ Đông Hoa Kỳ nhằm cố ngăn chặn dòng vận chuyển lực lượng và tiếp liệu sang Châu Âu. Chúng được cải biến từ tàu ngầm Type IA,[2][Ghi chú 1] và xuất hiện với nhiều biến thể khác nhau.[3]
Đặc tính
Những chiếc Type IX được trang bị sáu ống phóng ngư lôi, gồm bốn ống phía mũi và hai ống phía đuôi tàu. Chúng mang theo sáu quả ngư lôi để nạp lại bên trong tàu, đồng thời có năm khoang chứa ngư lôi bên ngoài (ba khoang phía đuôi và hai khoang phía mũi) để chứa thêm mười quả ngư lôi nữa. Tổng cộng 22 quả ngư lôi mang theo cho mỗi chuyến tuần tra cho phép các chỉ huy U-boat theo dõi các đoàn tàu vận tải và tấn công liên tiếp nhiều đêm. Một số chiếc IXC được trang bị cho hoạt động rải thủy lôi; trong vai trò rải mìn chúng có thể mang theo 44 thủy lôi TMA hoặc 60 thủy lôi TMB.[4]
Vũ khí thứ cấp bao gồm một khẩu hải pháo 10,5 cm (4,1 in) trên boong tàu cùng 180 quả đạn pháo. Vũ khí phòng không trang bị thay đổi theo thời kỳ của chiến tranh. Chúng có hai kính tiềm vọng trên tháp chỉ huy; các phân lớp Types IXA và IXB còn có một kính tiềm vọng từ phòng điều khiển, nhưng được tháo dỡ kể từ phân lớp Type IXC và sau đó. Những tàu ngầm hoạt động tầm xa thường được trang bị một diều quayFocke-Achgelis Fa 330.
12.000 nmi (22.000 km; 14.000 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi)
64 nmi (119 km; 74 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Type IXB là phân lớp được cải biến để nâng cao tầm xa hoạt động. Đây là biến thể Type IX thành công nhất khi mỗi chiếc Type IXB trung bình đã đánh chìm trên 100.000 GRT tải trọng tàu bè đối phương.
13.400 nmi (24.800 km; 15.400 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi)
63 nmi (117 km; 72 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Type IXC là phân lớp được tiếp tục cải tiến có khả năng chứa thêm 43 tấn nhiên liệu, giúp nâng thêm tầm xa hoạt động. Phiên bản này loại bỏ kính tiềm vọng tại phòng điều khiển, nên chỉ có hai kính tiềm vọng trên tháp chỉ huy. Trong cấu hình tàu ngầm rải mìn, chúng mang theo 44 thủy lôi TMA hoặc 60 thủy lôi TMB; tuy nhiên 35 chiếc từ U-162 đến U-170 và U-505 đến U-550 không được trang bị cho hoạt động rải mìn.[5]
Những chiếc Type IXC nổi bật bao gồm U-156, vốn bị một máy bay ném bom Hoa Kỳ tấn công trong lúc đang treo một lá cờ chữ thập đỏ để cứu vớt những người sống sót từ tàu chở hành khách Anh Laconia; và U-166 là tàu ngầm U-boat duy nhất bị đánh chìm trong vịnh Mexico. Tàu ngầm U-505 sống sót qua cuộc chiến tranh và hiện đang được bảo tồn tại Bảo tàng Khoa học và Công nghiệp tại Chicago, và được phục chế toàn bộ sau khi chuyển đến địa điểm trưng bày mới từ năm 2004.[6]
Danh sách tàu ngầm Type IXC
Các xưởng đóng tàu DeSchiMAG AG Weser và Seebeckwerft tại Bremen, cùng Deutsche Werft tại Hamburg đã chế tạo 54 chiếc Type IXC. Chỉ có bốn chiếc sống sót qua cuộc chiến tranh, và một chiếc duy nhất được bảo tồn tại Hoa Kỳ.
13.850 nmi (25.650 km; 15.940 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi)
63 nmi (117 km; 72 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Type IXC/40 là một phiên bản cải tiến của Type IXC với tầm xa hoạt động à tốc độ trên mặt nước được cải thiện đôi chút. Sau khi được trục vớt vào năm 1993, phần còn lại của tàu ngầm U-533 được trưng bày tại Bến phà Woodside, Birkenhead.[7]
Danh sách tàu ngầm Type IXC/40
Các xưởng đóng tàu DeSchiMAG AG Weser và Seebeckwerft tại Bremen, cùng Deutsche Werft tại Hamburg đã chế tạo 87 chiếc Type IXC/40.
23.700 nmi (43.900 km; 27.300 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi)
115 nmi (213 km; 132 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Phân lớp Type IXD dài hơn và nặng hơn đáng kể so với Type IXC/40. Chúng nhanh hơn Type IXC nhưng phải trả giá với sự kém cơ động hơn. Type IXD có ba cặp động cơ diesel Daimler Benz: hai cặp để di chuyển đường trường và một cặp để di chuyển nhanh hay nạp lại điện cho ắc-quy. Type IXD có tổng cộng ba biến thể:
IXD1 có động cơ kém tin cậy nên sau đó được chuyển sang sử dụng như tàu vận chuyển trên mặt nước.
IXD2 chiếm số lượng nhiều nhất trong phân lớp và có tầm xa hoạt động lên đến 23.700 nmi (43.900 km).
IXD/42 hầu như tương tự nhưng động cơ có công suất mạnh hơn (5.400 hp (4.000 kW; 5.500 PS) thay vì 4.400 hp (3.300 kW; 4.500 PS)).
Vào những năm 1943 và 1944, một số chiếc Type IXD được tháo dỡ ống phóng ngư lôi để cải biến sang nhiệm vụ vận tải. Trong vai trò mới này chúng có thể vận chuyển 252 tấn hàng hóa, và tầm xa hoạt động được mở rộng đến 31.500 nmi (58.300 km).[1]
Danh sách tàu ngầm Type IXD
Xưởng đóng tàu DeSchiMAG AG Weser tại Bremen đã chế tạo 30 chiếc Type IXD.
^“U-505 (German Submarine)”. National Historic Landmark summary listing. National Park Service. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2008.
Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN1-85780-072-9.