Thiết kế của tàu ngầm Type IX là phiên bản cải biến từ tàu ngầm Type IA.[6] Chúng có trọng lượng choán nước 1.032 t (1.016 tấn Anh) khi nổi và 1.153 t (1.135 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 76,50 m (251 ft 0 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 58,75 m (192 ft 9 in), mạn tàu rộng 6,51 m (21 ft 4 in), chiều cao 9,40 m (30 ft 10 in) và mớn nước 4,70 m (15 ft 5 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ dieselMAN M 9 V 40/46 siêu tăng áp 9-xy lanh 4 thì, tổng công suất 4.400 PS (3.200 kW; 4.300 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,92 m (6,3 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 18,2 kn (33,7 km/h), và tầm hoạt động tối đa 10.500 nmi (19.400 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h).[4] Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điệnSiemens-Schuckert 2 GU 345/34 tổng công suất 1.000 PS (740 kW; 990 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,7 kn (14,3 km/h), và tầm hoạt động 65–78 nmi (120–144 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h).[4] Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 22 quả ngư lôi 53,3 cm (21 in). Tàu ngầm Type IX trang bị một hải pháo 10,5 cm (4,1 in) SK C/32 với 110 quả đạn, một pháo phòng không 3,7 cm (1,5 in) SK C/30 và hai pháo phòng không 2 cm (0,79 in) C/30. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 44 thủy thủ.[4]
Trong thành phần Chi hạm đội U-boat 6 đặt căn cứ tại Kiel,[2]U-43 xuất phát từ cảng này cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh vào ngày 6 tháng 11, 1939. Nó tiến ra Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK giữa các quần đảo Shetland và Faroe để vòng qua quần đảo Anh và hoạt động trong vùng biển Đại Tây Dương về phía Tây vịnh Biscay.[7] Tại đây vào ngày 16 tháng 11, nó tấn công chiếc tàu buôn Anh Arlington Court 4.915 GRT vốn đang trong hành trình từ Argentina đi sang Anh bị phân tán khỏi Đoàn tàu SL 7A, và hai quả ngư lôi đã đánh chìm Arlington Court về phía Tây Nam Start Point, Devon.[8] Ngay sau đó chiếc tàu ngầm bị các tàu hộ tống cho đoàn tàu truy lùng trong 20 giờ, và chịu đựng số số hư hại do mìn sâu.[2]
Tiếp tục chuyến tuần tra, trong vịnh Biscay vào ngày 22 tháng 11, U-43 tấn công Đoàn tàu 14 BS và đánh chìm chiếc tàu buôn PhápArijon 4.374 GRT.[9] Một lần nữa chiếc tàu ngầm bị các tàu vũ trang hộ tống phản công với 23 quả mìn sâu được thả xuống, nhưng U-43 thoát được mà không bị hư hại.[2] Đến ngày 25 tháng 11, ở vị trí về phía Tây Bắc mũi Finisterre (Tây Bắc Tây Ban Nha), U-43 tiếp tục tấn công chiếc tàu tiếp than Anh Uskmouth 2.483 GRT. Hai quả ngư lôi G7a đã gặp trục trặc, nên chiếc tàu ngầm trồi lên mặt nước để tấn công bằng hải pháo. Nó phóng thêm một quả ngư lôi vào mục tiêu nhưng lại bị trượt, nên tiếp tục bắn phá bằng hải pháo. Cuối cùng sau 149 phát đạn pháo, Uskmouth bốc cháy và chìm dần.[10]
Trên đường quay trở về căn cứ, ở vị trí về phía Tây Bắc Scotland vào sáng ngày 8 tháng 12, U-43 bị một máy bay không rõ định danh tấn công, và bị hư hại đáng kể. [2] Nó về đến cảng Wilhelmshaven sáu ngày sau đó, 14 tháng 12.[5]
1943
Chuyến tuần tra thứ mười bốn - Bị mất
U-43 lại xuất phát từ cảng Lorient vào ngày 13 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ mười bốn, và tiếp tục hoạt động tại khu vực Trung tâm Đại Tây Dương.[11] Trên đường đi trong vịnh Biscay vào chiều tối ngày 19 tháng 7, nó cùng với tàu ngầm U-403 bị một máy bay tuần tra Liberator Mk.V thuộc Liên đội 86 Không quân Hoàng gia Anh tấn công. U-403 đã lập tức lặn khẩn cấp để ẩn nấp trong khi U-43 chống trả bằng hỏa lực phòng không trước khi lặn. Chiếc Liberator bị hư hại nhẹ và một thành viên đội bay bị thương, nhưng nó cũng thả hai quả ngư lôi tấn công. Cả hai chiếc U-boat đều đi thoát mà không bị hư hại.[2]
U-43 đã đánh chìm 21 tàu buôn tổng tải trọng 117.036 GRT, gây tổn thất toàn bộ cho một tàu buôn tải trọng 9.131 GRT và gây hư hại cho một tàu buôn tải trọng 10.350 GRT:
^Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-43”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2024.
Thư mục
Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN1-55750-186-6.
Douglas, W.A.B. (2004). No Higher Purpose: The Official Operational History of the Royal Canadian Navy in the Second World War, 1939-1943. Vanwell Publishing. ISBN978-1551250618.
Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN0-85177-593-4.
Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN1-85409-515-3.
Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN978-1848322103.
Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN1-85780-072-9.
Williamson, Gordon (2006). Knight's Cross with Diamonds Recipients 1941–45. Oxford: Osprey. ISBN1-84176-644-5.