USS Sea Cat (SS/AGSS-399) là một tàu ngầm lớp Balao được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên thể rút gọn của họ Cá úc (Sea Catfish).[1] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II và thực hiện được bốn chuyến tuần tra, tự nhận đã đánh chìm ba tàu buôn với tổng tải trọng khoảng 17.000 tấn, nhưng không được công nhận sau chiến tranh.[9] Sau khi xung đột chấm dứt nó được xếp lại lớp như một "tàu ngầm phụ trợ" AGSS-399 và được nâng cấp trong khuôn khổ Chương trình Ống hơi Hạm đội để tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1968. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1973. Sea Cat được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[10] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[7][11] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[4] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[4][5] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[4] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[6] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[6]
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy.50 caliber.[6] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[7] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[12][13]
Khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 28 tháng 10 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, Sea Cat đi đến các căn cứ Midway và Saipan để tiếp thêm nhiên liệu trước khi hướng sang khu vực tuần tra tại biển Đông. Tại đây nó hoạt động trong thành phần một đội tấn công phối hợp ("Bầy sói") vốn còn bao gồm các tàu ngầm Pampanito (SS-383), Pipefish (SS-388) và Searaven (SS-196). Trong chuyến tuần tra này, Sea Cat đã phóng ngư lôi tấn công hai tàu buôn lớn với tổng tải trọng khoảng 15.000 tấn, và hạm trưởng tin rằng đã đánh chìm được cả hai. Tuy nhiên tài liệu thu được từ phía Nhật Bản sau chiến tranh không thể xác nhận chiến công này. Sau hơn hai tháng trên biển, chiếc tàu ngầm quay trở về Guam để tái trang bị.[1]
1945
Chuyến tuần tra thứ hai
Trong chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 1 tháng 2 đến ngày 24 tháng 3, 1945, Sea Cat hoạt động trong biển Hoa Đông phối hợp cùng một "Bầy sói" bao gồm các tàu ngầm Segundo (SS-398) và Razorback (SS-394). Ngoài khơi bờ biển đảo Kyūshū, nó dùng hải pháo bắn hư hại một tàu chở hàng nhỏ khoảng 300 tấn, và tấn công một tàu buôn khoảng 2.000 tấn. Cho dù nó tự nhận đã đánh chìm mục tiêu thứ hai bằng ngư lôi, một lần nữa ghi chép của phía Nhật Bản thu được sau chiến tranh không thể xác nhận điều này. Nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về căn cứ Midway.[1]
Chuyến tuần tra thứ ba
Lên đường vào ngày 27 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ ba tại khu vực Hoàng Hải, Sea Cat hoạt động cùng với sáu tàu ngầm khác để càn quét tàu bè đối phương. Nó phá hủy một tàu khoảng 400 tấn bằng hải pháo, vớt được hai người sống sót từ con tàu đắm để thẩm vấn trước khi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 25 tháng 6.[1]
Sau các hoạt động huấn luyện thường lệ, Sea Cat lại đi đến Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 15 tháng 1, 1952 để được nâng cấp trong khuôn khổ Chương trình Ống hơi Hạm đội. Con tàu được xếp lại lớp và quay trở lại ký hiệu lườn cũ SS-399 vào ngày 9 tháng 1, 1952.[1][3] Khi công việc hoàn tất, nó rời Philadelphia vào ngày 26 tháng 6 để quay trở lại Key West.[1]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.