USS Carp (SS/AGSS/IXSS-338) là một tàu ngầm lớp Balao từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chung của nhiều loài cá chép.[1] Nó đã hoạt động vào giai đoạn cuối Thế Chiến II, thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất trước khi xung đột chấm dứt, rồi tiếp tục phục vụ trong các cuộc Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1971, được xếp lại lớp như một tàu ngầm phụ trợ AGSS-338, rồi như một tàu ngầm tiện ích không phân loại IXSS-338. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1973. Carp được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm một Ngôi sao Chiến trận khác trong Chiến tranh Lạnh.
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[10] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[8][11] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[5] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[5][6] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[5] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[7] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[7]
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy.50 caliber.[7] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[8] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[12][13]
Đặt căn cứ tại San Diego và đảm nhiệm vai trò soái hạm của Đội tàu ngầm 71, Carp hoạt động dọc theo vùng bờ Tây và thỉnh thoảng có những chuyến đi huấn luyện đến Trân Châu Cảng. Từ ngày 13 tháng 2 đến ngày 15 tháng 6, 1947, nó thực hiện chuyến tuần tra mô phỏng đến Viễn Đông, rồi trong các năm 1948 và 1949, nó tiến hành hai chuyến đi thám hiểm lên vùng biển cực Bắc, vốn trở thành một khu vực hoạt động chiến lược quan trọng của tàu ngầm.[1]
Được nâng cấp trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY) vào tháng 2, 1952, Carp được cải thiện đang kể về tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động. Trong chuyến đi sang Viễn Đông từ ngày 22 tháng 9, 1952 đến tháng 4, 1953, nó đã hỗ trợ cho hoạt động của lực lượng Liên Hiệp Quốc trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên. Đi đến cảng nhà mới là Trân Châu Cảng vào ngày 15 tháng 3, 1954, nó tiếp tục hoạt động tích cực cùng hạm đội cho đến tháng 7, 1959, cũng như có những chuyến đi sang Viễn Đông bao gồm một chuyến viếng thăm thiện chí đến Australia, tham gia cuộc tập trận trong khuôn khổ Khối SEATO và hoạt động tại vùng biển Alaska.[1]
Carp được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm một Ngôi sao Chiến trận khác trong Chiến tranh Lạnh.[1][3]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.