USS Hardhead (SS-365) là một tàu ngầm lớp Balao được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một loài trong họ Cá chép.[1] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng sáu chuyến tuần tra, đánh chìm chín tàu Nhật Bản bao gồm một tàu tuần dương hạng nhẹ với tổng tải trọng 20.146 tấn.[10] Được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946, nó được huy động trở lại và được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IIA để tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh từ năm 1952 đến năm 1972. Con tàu sau đó được chuyển cho Hy Lạp để hoạt động như là chiếc Papanikolis (S-114) cho đến khi bị bán để tháo dỡ vào năm 1993. Hardhead được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[11] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[6][12] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[3] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[3][4] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[3] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[5] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[5]
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy.50 caliber.[5] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[6] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[13][14]
Lên đường vào ngày 27 tháng 7 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, Hardhead đi đến khu vực hoạt động ngoài khơi Philippines. Vào sáng sớm ngày 18 tháng 8, nó phát hiện qua radartàu tuần dương hạng nhẹNatori về phía Đông eo biển San Bernardino, nên áp sát trên mặt nước để tấn công. Lúc 02 giờ 40 phút, loạt ngư lôi thứ nhất phóng từ khoảng cách 2.800 yd (2.600 m) đánh trúng phòng nồi hơi bên mạn trái đã khiến chiếc tàu đối phương chết đứng giữa biển. Đến 03 giờ 30 phút, loạt ngư lôi thứ hai đánh trúng giữa tàu bên mạn phải đã khiến Natori chìm lúc 07 giờ 04 phút, tại tọa độ 12°29′B128°49′Đ / 12,483°B 128,817°Đ / 12.483; 128.817; tổn thất nhân mạng lên đến 330 sĩ quan và thủy thủ Nhật Bản.[1][17]
Trong thời gian còn lại của chuyến tuần tra, Hardhead làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu hỗ trợ cho hoạt động không kích của các tàu sân bay tại Philippines, và hoạt động trinh sát hỗ trợ cho chiến dịch đổ bộ lên quần đảo Palau. Nó kết thúc chuyến tuần tra khi về đến căn cứ Fremantle, Australia vào ngày 26 tháng 9.[1]
Chuyến tuần tra thứ hai
Trong chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 24 tháng 10 đến 5 tháng 12, Hardhead xuất phát từ Fremantle để hướng đến khu vực Philippines. Đang khi di chuyển trên mặt nước trong biển Sulu, nó phát hiện và cứu vớt Trung tá Hải quân Bakutis, chỉ huy Liên đội Tiêm kích VF-20 thuộc tàu sân bay Enterprise (CV-6). Trung tá Bakutis đã lênh đênh trên biển sáu ngày sau khi bị bắn rơi trong trận Hải chiến vịnh Leyte.[1]
Hoạt động trong thành phần một đội tấn công phối hợp (Bầy sói) vốn còn bao gồm các tàu ngầm Growler (SS-215) và Hake (SS-256), vào sáng sớm ngày 8 tháng 11, Hardhead phát hiện một tàu vận tải tại vị trí khoảng 100 mi (160 km) về phía Tây Nam Olongapo, Luzon. Sau đợt tấn công đầu tiên bị chống trả, Hardhead cơ động đến vị trí đón đầu và lúc khoảng 04 giờ 00 đã phóng một loạt ngư lôi tấn công, đánh chìm tàu chở dầuManei Maru tại tọa độ 13°30′B119°25′Đ / 13,5°B 119,417°Đ / 13.500; 119.417 và khiến 36 thành viên thủy thủ đoàn Nhật tử trận. Đợt phản công của các tàu hộ tống có thể đã khiến Growler bị mất trong trận này.[1][18]
Sau đó trong tháng 11, Hardhead làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu ngoài khơi vịnh Subic. Vào ngày 25 tháng 11, bắt gặp một đoàn tàu vận tải được hộ tống, nó đã tấn công và đánh chìm một tàu phòng vệ duyên hải, gây hư hại cho một tàu buôn rồi né tránh đợt phản công bằng mìn sâu. Nó kết thúc chuyến tuần tra không lâu sau đó khi quay trở về căn cứ Fremantle.[1]
Vào tháng 7, 1958, Hardhead gia nhập Đội Phát triển Tàu ngầm 2 và chuyển sang hoạt động nghiên cứu và thử nghiệm thiết bị cũng như học thuyết chiến thuật mới. Chiếc tàu ngầm hoạt động dọc theo vùng bờ Đông và tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương cho đến năm 1972, và đã từng tham gia hoạt động phong tỏa Cuba nhân vụ Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962.[1]
Hardhead được tặng thưởng sáu Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][15] Nó được ghi công đã đánh chìm chín tàu Nhật Bản bao gồm một tàu tuần dương hạng nhẹ với tổng tải trọng 20.146 tấn.[10]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.