USS Jallao (SS-368) là một tàu ngầm lớp Balao được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên tiếng Tây Ban Nha của một loài trong họ Cá sạo.[1] Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II, thực hiện được bốn chuyến tuần tra và đánh chìm một tàu chở hành khách Nhật Bản tải trọng 5.795 tấn.[11] Được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946, nó được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IIA để tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Con tàu sau đó được chuyển cho Tây Ban Nha và tiếp tục phục vụ như là chiếc Narciso Monturiol (S-35) từ năm 1974 đến năm 1984, rồi cuối cùng bị đánh chìm ngoài khơi Cartagena vào năm 1985. Jallao được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[12] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[7][13] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[3] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[3][5] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[3] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[6] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[6]
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy.50 caliber.[6] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[7] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[14][15]
Vào chiều tối ngày 25 tháng 10, về phía Đông Bác đảo Luzon, qua radarJallao bắt gặp tàu tuần dương hạng nhẹTama, vốn đã bị hư hại do trúng ngư lôi ném từ máy bay của tàu sân bay trước đó, đang di chuyển một mình không được hộ tống với tốc độ khoảng 15 kn (28 km/h). Đến 21 giờ 01 phút, chiếc tàu ngầm phóng một loạt ba quả ngư lôi phía mũi về phía mục tiêu ở khoảng cách 1.000 yd (910 m), nhưng bị trượt. Nó quay đầu và phóng tiếp một loạt bốn quả ngư lôi phía đuôi ở khoảng cách 800 yd (730 m), và ba quả đã trúng đích lúc 21 giờ 05 phút. Tama vỡ làm đôi và chìm chỉ trong vòng vài phút với tổn thất nhân mạng toàn bộ, tại tọa độ 21°23′B127°19′Đ / 21,383°B 127,317°Đ / 21.383; 127.317.[18] Sau đó chiếc tàu ngầm tiếp tục tuần tra cho đến ngày 28 tháng 11, rồi quay trở về căn cứ tại Majuro vào ngày 10 tháng 12.[1]
1945
Chuyến tuần tra thứ hai
Lên đường vào ngày 6 tháng 1, 1945, Jallao thực hiện chuyến tuần tra thứ hai tại khu vực Hoàng Hải, tuy nhiên vào lúc này mục tiêu tiềm năng đã trở nên hiếm hoi. Đang khi tấn công một đoàn tàu vận tải vào ngày 5 tháng 3, một tàu hộ tống đối phương tìm cách áp sát để húc chiếc tàu ngầm, nên đã gây hư hại kính tiềm vọng của nó. Jallao rút lui hai ngày sau đó, đi đến căn cứ tại Midway vào ngày 26 tháng 3.[1]
Chuyến tuần tra thứ ba
Sau khi được sửa chữa, Jallao rời Midway vào ngày 20 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ ba, làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu hỗ trợ các phi vụ không kích tại đảo Marcus. Khi nhận được tín hiệu cấp cứu từ khu vực phía Bắc hòn đảo vào ngày 9 tháng 5, nó đã vượt qua màn hỏa lực pháo bờ biển đối phương, áp sát bờ và giải cứu 5 thành viên một đội bay trên một chiếc bè. Các phi công được vận chuyển an toàn đến Saipan vào ngày 12 tháng 5, và chiếc tàu ngầm quay trở lại khu vực bờ biển Nhật Bản, tiếp tục vai trò tìm kiếm và giải cứu phục vụ cho hoạt động không kích. Nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 13 tháng 6.[1]
Jallao lại chuyển cảng nhà trở lại New London vào tháng 7, 1955, rồi lên đường vào ngày 7 tháng 8 để cùng tàu ngầm AnhHMS Alderney (P416) tham gia cuộc tập trận phối hợp "New Broom IV". Sau đó từ ngày 9 tháng 11, nó được phái sang phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải, tham gia huấn luyện cùng Hải quân Ý cũng như tham gia các cuộc tập trận hạm đội. Sang giữa tháng 1, 1956, chiếc tàu ngầm bắt đầu một hành trình dài để quay trở về nhà, băng qua kênh đào Suez để viếng thăm nhiều cảng Đông và Nam Phi, rồi băng qua Nam Đại Tây Dương để tham gia tập trận cùng các tàu khu trục Uruguay và Brazil. Nó về đến New London vào ngày 16 tháng 4.[1]
1957 - 1967
Sau khi được nâng cấp những thiết bị điện tử hiện đại, Jallao quay trở lại hoạt động vào tháng 1, 1957. Nó tham gia cuộc tập trận hạm đội tại vùng biển Caribe trong tháng 2, rồi đi đến Boston vào cuối tháng 7 cho một chuyến đi thực tập mùa Hè dành cho học viên sĩ quan. Nó tham gia cuộc tập trận trong khuôn khổ Khối NATO tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương trong tháng 9 và tháng 10, và quay trở về New London vào ngày 24 tháng 10. Chiếc tàu ngầm dành gần trọn năm 1958 để thực hành huấn luyện dọc bờ biển Đại Tây Dương, và tham gia cuộc tập trận chống tàu ngầm tại Bắc Đại Tây Dương trong tháng 9. Sang năm 1959, nó tham gia phát triển thiết bị và huấn luyện cùng Trường tàu ngầm Hạm đội tại New London.[1]
Jallao lên đường vào ngày 20 tháng 1, 1960 để thực hành huấn luyện tại vùng biển Caribe, rồi quay trở về vào ngày 19 tháng 2, và sau đó tiếp tục huấn luyện tại khu vực Bermuda. Từ ngày 9 tháng 1 đến ngày 24 tháng 3, 1961, nó tham gia nhiệm vụ huấn luyện đặc biệt tại vùng biển ngoài khơi Scotland, rồi hoạt động phối hợp cùng tàu chiến Hải quân Hoàng gia Canada ngoài khơi Halifax trong mùa Hè trước khi quay trở về c1n cứ New London. Sang năm 1962, con tàu lại có một lượt phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải từ ngày 2 tháng 1 đến ngày 7 tháng 5, nơi nó thực hành huấn luyện và tập trận. Khi quay trở về nó được sửa chữa và hiện đại hóa tại Xưởng hải quân Philadelphia. [1]
Trong giai đoạn 1963-1964, Jallao có các chuyến đi huấn luyện tại vùng biển Caribe, phục vụ huấn luyện cho Trường tàu ngầm Hạm đội, cũng như tham gia thử nghiệm đánh giá thiết bị mới. Đến ngày 3 tháng 1, 1965, nó kkhởi hành cho lượt phục vụ thứ ba cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải, và quay trở về vào ngày 1 tháng 5. Con tàu tiếp tục vai trò huấn luyện từ New London và thử nghiệm học thuyết chiến thuật mới dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và vùng biển Caribe cho đến năm 1974. [1]
Jallao được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][16] Nó được ghi công đã đánh chìm một tàu chở hành khách Nhật Bản tải trọng 5.795 tấn.[11]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.