USS Runner (SS-476)

Tàu ngầm USS Runner (SS-476)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Runner (SS-476)
Đặt tên theo một loài trong họ Cá khế[1]
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine[2]
Đặt lườn 10 tháng 7, 1944[2]
Hạ thủy 17 tháng 10, 1944[2]
Người đỡ đầu bà Raymond H. Bass
Nhập biên chế 6 tháng 2, 1945[2]
Xuất biên chế 29 tháng 6, 1970[2]
Xóa đăng bạ 15 tháng 12, 1971[2]
Danh hiệu và phong tặng 1 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán để tháo dỡ, 19 tháng 6, 1973[2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp Tench[3]
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.570 tấn Anh (1.600 t) (mặt nước) [3]
  • 2.429 tấn Anh (2.468 t) (lặn) [3]
Chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m) [3]
Sườn ngang 27 ft 4 in (8,33 m) [3]
Mớn nước 17 ft (5,2 m) [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 16.000 hải lý (30.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[4]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ ở tốc độ 2 kn (2,3 mph; 3,7 km/h) khi lặn [4]
  • 75 ngày tuần tra
Độ sâu thử nghiệm 400 ft (120 m) [4]
Thủy thủ đoàn tối đa 10 sĩ quan, 71 thủy thủ [4]
Vũ khí

USS Runner (SS-476/AGSS-476) là một tàu ngầm lớp Tench được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một loài trong họ Cá khế.[1] Nhập biên chế năm 1945, nó đã phục vụ trong giai đoạn sau cùng của Thế Chiến II, nhưng chỉ kịp thực hiện được hai chuyến tuần tra và đánh chìm được một tàu chiến 630 tấn trước khi cuộc xung đột chấm dứt. Con tàu đã tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, và từng đảm nhiệm vai trò tàu ngầm dẫn đường cho tên lửa hành trình Regulus I, cho đến khi xuất biên chế vào năm 1970 và bán để tháo dỡ vào năm 1973. Runner được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Lớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm đội Balao Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[6]

Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Chúng trang bị bốn động cơ diesel Fairbanks-Morse 38D8-⅛ 10-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quy Sargo 126-cell để vận hành hai động cơ điện General Electric lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[3][7]

Lớp Tench được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía đuôi tàu, và mang theo tổng cộng 28 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 5 inch/25 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[5][4]

Chế tạo

Runner được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth Kittery, Maine vào ngày 10 tháng 7, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng 10, 1944, được đỡ đầu bởi bà Raymond H. Bass, phu nhân hạm trưởng tương lai, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 2, 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Raymond Henry Bass.[1][8][9]

Lịch sử hoạt động

Thế Chiến II

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi Newport, Rhode IslandPortsmouth, New Hampshire, Runner khởi hành từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London tại New London, Connecticut vào ngày 5 tháng 4, 1945 để tiếp tục huấn luyện tại Key West, Florida và tại vùng kênh đào Panama. Nó lên đường vào ngày 5 tháng 5 để đi sang khu vực Thái Bình Dương, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 21 tháng 5, và tiếp tục thực hành huấn luyện tại vùng biển quần đảo Hawaii.[1][9]

Chuyến tuần tra thứ nhất

Runner khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 25 tháng 6 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, và hoạt động tại vùng biển về phía Đông đảo Honshū, chủ yếu làm nhiệm vụ dò tìm các bãi thủy lôi bảo vệ các đảo chính quốc Nhật Bản. Đang khi tuần tra trong biển Nhật Bản vào ngày 10 tháng 7, nó đánh chặn một tàu chở dầu được hai tàu quét mìn hộ tống. Tàu chở dầu Shinyo Maru đã né tránh được và chạy thoát, nhưng tàu quét mìn W-27 (630 tấn) trúng hai quả ngư lôi bên mạn phải và đắm chỉ trong vòng 90 giây tại tọa độ 39°20′B 142°07′Đ / 39,333°B 142,117°Đ / 39.333; 142.117.[10] Trước khi rời khu vực tuần tra, nó đón lên tàu 16 phi công bị bắn rơi được các tàu ngầm Gabilan (SS-252)Aspro (SS-309) giải cứu và đưa họ đến Guam, nơi Runner kết thúc chuyến tuần tra vào ngày 24 tháng 7.[1][9]

Chuyến tuần tra thứ hai

Runner bắt đầu chuyến tuần tra thứ hai từ Guam vào ngày 4 tháng 8, và tiếp tục làm nhiệm vụ tại vùng biển về phía Đông Honshū. Tuy nhiên khi nó đi đến khu vực tuần tra được chỉ định, xung đột chấm dứt do phía Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8. Nó cùng với mười tàu ngầm khác tiến vào vịnh Tokyo vào ngày 31 tháng 8, và đã có mặt tại đây khi buổi lễ ký kết văn kiện đầu hàng diễn ra trên thiết giáp hạm Missouri (BB-63) vào ngày 2 tháng 9.[1][9]

1946 - 1970

Phần thưởng

Runner được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][8] Nó được ghi công đã đánh chìm một tàu chiến Nhật Bản tải trọng 630 tấn.[11]

Bronze star
Dãi băng Hoạt động Tác chiến Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ
Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 1 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Huân chương Phục vụ Phòng vệ Quốc gia

Tham khảo

Chú thích

  1. ^ a b c d e f g Naval Historical Center. Runner II (SS-476). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e f g Friedman 1995, tr. 285-304
  3. ^ a b c d e f g h i j k l Bauer & Roberts 1991, tr. 280–282
  4. ^ a b c d e f g h Friedman 1995, tr. 305-311
  5. ^ a b c d e f Lenton (1973), tr. 101.
  6. ^ Gardiner & Chesneau, tr. 146–147.
  7. ^ Friedman 1995, tr. 261–263, 305–311.
  8. ^ a b Yarnall, Paul R. “Runner (SS-476) (AGSS-476)”. NavSource.org. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2024.
  9. ^ a b c d Helgason, Guðmundur. “Runner (ii) (SS-476)”. uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2024.
  10. ^ Hackett, Bob; Cundall, Peter (2015). “IJA Minesweeper W-27: Tabular Record of Movement”. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2024.
  11. ^ The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2024.

Thư mục

Liên kết ngoài


 

Prefix: a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9

Portal di Ensiklopedia Dunia