USS Cutlass (SS-478)
USS Cutlass (SS-478) là một tàu ngầm lớp Tench được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chung của nhiều loài trong họ Cá hố.[1] Nhập biên chế năm 1945, nó đã phục vụ trong giai đoạn sau cùng của Thế Chiến II, nhưng chỉ kịp thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất trước khi cuộc xung đột chấm dứt. Con tàu được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY II, và tiếp tục đã hoạt động trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1973. Cutlass được chuyển giao cho Đài Loan và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Trung Hoa Dân Quốc như là chiếc ROCS Hai Shih (SS-791) (phiên âm Hán-Việt: Hải Sư). Chiếc tàu ngầm hiện vẫn đang tiếp tục hoạt động tính cho đến tháng 7, 2021.[8]
Thiết kế và chế tạoThiết kếLớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm đội Balao và Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[9] Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Chúng trang bị bốn động cơ diesel Fairbanks-Morse 38D8-⅛ 10-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quy Sargo 126-cell để vận hành hai động cơ điện General Electric lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[3][10] Lớp Tench được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía đuôi tàu, và mang theo tổng cộng 28 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 5 inch/25 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[5][4] Chế tạoCutlass được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 10 tháng 7, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 5 tháng 11, 1944, được đỡ đầu bởi bà R. E. Kintner, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 3, 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Herbert Lollis Jukes.[1][11][12] Lịch sử hoạt độngUSS CutlassSau khi hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi Newport, Rhode Island và Portsmouth, New Hampshire, Cutlass khởi hành từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London tại New London, Connecticut vào ngày 22 tháng 5 để đi sang Key West, Florida. Tại đây chiếc tàu ngầm thực hành huấn luyện từ ngày 29 tháng 5 đến ngày 14 tháng 6, rồi lên đường đi sang khu vực Thái Bình Dương ngang qua vùng kênh đào Panama, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 15 tháng 7.[1][12] Cutlass xuất phát vào ngày 17 tháng 7 cho chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh để hoạt động tại vùng biển quần đảo Kuril, tuy nhiên nó chỉ đi đến khu vực tuần tra được chỉ định một ngày sau khi xung đột chấm dứt do phía Nhật Bản đã chấp nhận đầu hàng. Con tàu tiếp tục tuần tra cho đến ngày 24 tháng 8, khi nó được lệnh quay trở về Trân Châu Cảng, rồi lên đường vào ngày 2 tháng 9 để quay trở lại vùng bờ Đông, đi đến thành phố New York vào ngày 24 tháng 9; tại đây nó đón tiếp công chúng tham quan tàu nhân ngày Hải quân.[1][12] ROCS Hai ShihTham khảoChú thích
Thư mục
Liên kết ngoàiWikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về USS Cutlass (SS-478).
|
Portal di Ensiklopedia Dunia