USS Torsk (SS-423)

Tàu bảo tàng USS Torsk (SS-423) tại cảng Baltimore, tháng 9 năm 2012
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Torsk (SS-423)
Đặt tên theo một loài thuộc họ Cá tuyết sông[1]
Đặt hàng 22 tháng 2, 1943 [2]
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine[3]
Đặt lườn 7 tháng 6, 1944 [3]
Hạ thủy 6 tháng 9, 1944 [3]
Người đỡ đầu bà Allen B. Reed
Nhập biên chế 16 tháng 12, 1944 [3]
Xuất biên chế 4 tháng 3, 1968 [3][4]
Xóa đăng bạ 15 tháng 12, 1971 [3]
Danh hiệu và phong tặng 2 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Tàu bảo tàng tại Baltimore, Maryland, 26 tháng 9, 1972
Tình trạng Đang được phục chế
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp Tench[5]
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.570 tấn Anh (1.600 t) (mặt nước) [5]
  • 2.429 tấn Anh (2.468 t) (lặn) [5]
Chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m) [5]
Sườn ngang 27 ft 4 in (8,33 m) [5]
Mớn nước 17 ft (5,2 m) [5]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 16.000 hải lý (30.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[6]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ ở tốc độ 2 kn (2,3 mph; 3,7 km/h) khi lặn [6]
  • 75 ngày tuần tra
Độ sâu thử nghiệm 400 ft (120 m) [6]
Thủy thủ đoàn tối đa 10 sĩ quan, 71 thủy thủ [6]
Vũ khí
USS Torsk
Vị tríPier IV, Pratt St., Baltimore, Maryland
Tọa độ39°17′6,2″B 76°36′31,4″T / 39,28333°B 76,6°T / 39.28333; -76.60000
Số NRHP #86000090[8]
Những ngày quan trọng
Đưa vào NRHP14 tháng 1, 1986
Công nhận NHL14 tháng 1, 1986

USS Torsk (SS-423) là một tàu ngầm lớp Tench được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một loài thuộc họ Cá tuyết sông.[1] Nhập biên chế năm 1944, nó đã phục vụ trong giai đoạn sau cùng của Thế Chiến II, thực hiện được hai chuyến tuần tra và đánh chìm ba tàu đối phương với tổng tải trọng 2.473 tấn, trong đó có con tàu Nhật Bản cuối cùng bị Hải quân Hoa Kỳ đánh chìm trong cuộc xung đột trước khi Nhật Bản đầu hàng. Sau khi được nâng cấp trong Chương trình Ống hơi Hạm đội và tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, Torsk được cho xuất biên chế vào năm 1968 và rút đăng bạ năm 1971, nhưng được giữ lại bảo tồn như một tàu bảo tàng tại Baltimore, Maryland. Torsk được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Lớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm đội Balao Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[9]

Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Chúng trang bị bốn động cơ diesel Fairbanks-Morse 38D8-⅛ 10-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quy Sargo 126-cell để vận hành hai động cơ điện General Electric lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[5][10]

Lớp Tench được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía đuôi tàu, và mang theo tổng cộng 28 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 5 inch/25 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[7][6]

Chế tạo

Torsk được đặt hàng vào ngày 22 tháng 2, 1943[2] và được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth Kittery, Maine vào ngày 7 tháng 6, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 6 tháng 9, 1944, được đỡ đầu bởi bà Allen B. Reed, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 12, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Bafford E. Lewellen.[1][11][2]

Lịch sử hoạt động

Thế Chiến II

Torsk (SS-423) đang trên đường đi, ngày 16 tháng 2 năm 1945

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi New London, Connecticut, Torsk khởi hành từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London vào ngày 11 tháng 2, 1945 để đi sang vùng kênh đào Panama ngang qua Port Everglades, Florida, đến nơi vào ngày 25 tháng 2. Sau một giai đoạn huấn luyện, nó lại lên đường vào ngày 6 tháng 3 để đi sang khu vực Thái Bình Dương, và đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 23 tháng 3. Chiếc tàu ngầm tiếp tục huấn luyện tại vùng biển quần đảo Hawaii.[1][2]

Chuyến tuần tra thứ nhất

Torsk xuất phát từ Trân Châu Cảng vào ngày 16 tháng 4 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, ghé đến để tiếp thêm nhiên liệu trước khi tiếp tục hành trình để hoạt động ở khu vực eo biển Kii, đến nơi vào ngày 11 tháng 5. Tại đây nó làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu các đội bay Hoa Kỳ bị bắn rơi trong các chiến dịch không kích xuống các đảo chính quốc Nhật Bản, nhưng khôngcó máy bay nào bị rơi trong ngày hôm đó. Sau đó chiếc tàu ngầm di chuyển lên phía bờ biển Tây Bắc Honshū, đến nơi hai ngày sau đó. Trong các ngày 1415 tháng 5, nó bắt liên lạc với bầy sói đang hoạt động trong khu vực, rồi tham gia cùng các tàu ngầm Sand Lance (SS-381)Cero (SS-225) để hoạt động tuần tra dọc bờ biển Honshū, nhưng không bắt gặp tàu bè Nhật Bản nào. [1][2]

Phần thưởng

Torsk được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][11] Nó được ghi công đã đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 2.473 tấn.[12]

Bronze star
Bronze star
Dãi băng Hoạt động Tác chiến Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ
Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 2 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Huân chương Phục vụ Phòng vệ Quốc gia

Tham khảo

Chú thích

  1. ^ a b c d e f Naval Historical Center. Torsk (SS-423). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e Helgason, Guðmundur. “Torsk (SS-423)”. uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f Friedman 1995, tr. 285-304
  4. ^ “USS Torsk Keeps Useful”. The Portsmouth Herald. 4 tháng 3 năm 1968. tr. 1. Torsk is scheduled to be decommissioned at 9 a.m. at the Boston Naval Shipyard.
  5. ^ a b c d e f g h i j k l Bauer & Roberts 1991, tr. 280–282
  6. ^ a b c d e f g h Friedman 1995, tr. 305-311
  7. ^ a b c d e f Lenton (1973), tr. 101.
  8. ^ “Hệ thống Thông tin Sổ bộ Quốc gia”. Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ. Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ. 9 tháng 7 năm 2010.
  9. ^ Gardiner & Chesneau, tr. 146–147.
  10. ^ Friedman 1995, tr. 261–263, 305–311.
  11. ^ a b Yarnall, Paul R. “Torsk (SS-423) (AGSS-423) (IXSS-423)”. NavSource.org. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2024.
  12. ^ The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2024.

Thư mục

Liên kết ngoài