USS Conger (SS-477)

Tàu ngầm USS Conger (SS-477)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Conger (SS-477)
Đặt tên theo cá lịch[1]
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine[2]
Đặt lườn 11 tháng 7, 1944[2]
Hạ thủy 17 tháng 10, 1944[2]
Người đỡ đầu bà Walter C. Ploeser
Nhập biên chế 14 tháng 2, 1945[2]
Xuất biên chế 29 tháng 7, 1963[2]
Xóa đăng bạ 1 tháng 8, 1963[2]
Số phận Bán để tháo dỡ, 9 tháng 7, 1964[2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp Tench[3]
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.570 tấn Anh (1.600 t) (mặt nước) [3]
  • 2.429 tấn Anh (2.468 t) (lặn) [3]
Chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m) [3]
Sườn ngang 27 ft 4 in (8,33 m) [3]
Mớn nước 17 ft (5,2 m) [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 16.000 hải lý (30.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[4]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ ở tốc độ 2 kn (2,3 mph; 3,7 km/h) khi lặn [4]
  • 75 ngày tuần tra
Độ sâu thử nghiệm 400 ft (120 m) [4]
Thủy thủ đoàn tối đa 10 sĩ quan, 71 thủy thủ [4]
Vũ khí

USS Conger (SS-477/AGSS-477) là một tàu ngầm lớp Tench được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá lịch.[1] Nhập biên chế năm 1945, nó hoàn tất quá trễ để có thể tham gia hoạt động trong Thế Chiến II, nhưng đã tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, bao gồm việc thử nghiệm hệ thống sonar BRASS II (Bottom Reflection Active Sonar System II) vào năm 1961, cho đến khi xuất biên chế năm 1963. Conger bị bán để tháo dỡ vào năm 1964.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Lớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm đội Balao Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[6]

Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Chúng trang bị bốn động cơ diesel Fairbanks-Morse 38D8-⅛ 10-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quy Sargo 126-cell để vận hành hai động cơ điện General Electric lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[3][7]

Lớp Tench được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía đuôi tàu, và mang theo tổng cộng 28 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 5 inch/25 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[5][4]

Chế tạo

Conger được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth Kittery, Maine vào ngày 11 tháng 7, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng 10, 1944, được đỡ đầu bởi bà Walter C. Ploeser, phu nhân Hạ Nghị sĩ bang Missouri Walter Christian Ploeser, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 2, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Henry Draper Sipple.[1][8][9]

Lịch sử hoạt động

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi Newport, Rhode IslandPortsmouth, New Hampshire, Runner khởi hành từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London tại New London, Connecticut vào ngày 21 tháng 7, 1945 cho hành trình đi sang khu vực Thái Bình Dương ngang qua vùng kênh đào Panama. Tuy nhiên lúc đang trên đường đi trong chặng từ Balboa, Panama đến Trân Châu Cảng, xung đột chấm dứt do phía Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8. Vì vậy chiếc tàu ngầm được lệnh quay trở lại vùng kênh đào Panama, rồi đi đến Key West, Florida vào ngày 4 tháng 9, nơi nó phục vụ cho việc huấn luyện tại Trường Sonar Hải quân cho đến ngày 6 tháng 12.[1][9]

Tham khảo

Chú thích

  1. ^ a b c d Naval Historical Center. Conger (SS-477). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e f g Friedman 1995, tr. 285-304
  3. ^ a b c d e f g h i j k l Bauer & Roberts 1991, tr. 280–282
  4. ^ a b c d e f g h Friedman 1995, tr. 305-311
  5. ^ a b c d e f Lenton (1973), tr. 101.
  6. ^ Gardiner & Chesneau, tr. 146–147.
  7. ^ Friedman 1995, tr. 261–263, 305–311.
  8. ^ Yarnall, Paul R. “Conger (SS-477) (AGSS-477)”. NavSource.org. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2024.
  9. ^ a b Helgason, Guðmundur. “Conger (SS-477)”. uboat.net. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2024.

Thư mục

Liên kết ngoài


 

Prefix: a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9

Portal di Ensiklopedia Dunia