Rhamnella
Rhamnella là một chi thực vật có hoa thuộc họ Táo (Rhamnaceae). Chi này được Friedrich Anton Wilhelm Miquel mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1867 với 1 loài là R. japonica ở Nhật Bản.[1] Tên gọi của các loài tại Trung Quốc là 猫乳 (miêu nhũ), nghĩa đen là vú mèo.[3] Các loàiChi này chứa 12 loài đã biết, với khu vực phân bố chủ yếu từ Đông Á đại lục tới Việt Nam, với một loài (R. vitiensis) có tại Queensland (Australia), New Guinea và một số đảo cận kề.[4]
Mô tảCây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, ít khi là dạng leo bám, từ thường xanh đến hầu hết là lá sớm rụng. Các lá mọc cách, có cuống lá ngắn; các lá kèm hình tam giác hẹp hoặc hình mác, thường bền; phiến lá dạng giấy hoặc gần dạng màng, gân lá lông chim, mép khía răng cưa nhỏ. Hoa màu vàng-lục, nhỏ, lưỡng tính, mẫu 5, có cuống hoa, trong các xim ở nách lá có cuống ngắn hoặc mọc thành chùm ở nách lá. Ống đài hình chén; các thùy hình tam giác, gân giữa mặt gần trục có gờ và với nhú giống như mỏ ở giữa. Cánh hoa hình trứng-hình thìa hoặc hình tròn-hình thìa, có nắp khác biệt nhiều hay ít, bao lấy nhị hoa. Nhị hoa đính lưng; chỉ nhị rời với vuốt ở đáy, hình mác-thẳng. Đĩa hoa ngũ giác, mỏng, lót ống đài, có tiết mật. Bầu nhụy thượng, đáy hơi chìm trong đĩa hoa, 1 hoặc 2 ngăn hoặc 1 ngăn không hoàn hảo, với 2 noãn mỗi ngăn; vòi nhụy chẻ đôi ở đỉnh. Quả hạch màu ánh vàng đến màu da cam, chuyển thành đen hoặc tía đen khi chín, đáy hình trụ-hình elipxoit với những tàn dư của ống đài bền, với vòi nhụy thô sơ ở đỉnh, 1 hoặc 2 ngăn, với 1 hoặc 2 hạt.[3] Lưu ýHiện tại, một số tác giả vẫn tách Chaydaia như là một chi độc lập. Khi được công nhận, nó bao gồm 2 loài là C. tonkinensis và C. rubrinervis.[5] Tham khảo
|
Portal di Ensiklopedia Dunia