Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nướcGeneral Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo 3 in (76 mm)/50 cal.[5][6]
Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước 300 ft (91 m) và chiều dài chung 306 ft (93 m); mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.430 tấn Anh (1.450 t); và lên đến 1.823 tấn Anh (1.852 t) khi đầy tải.[7] Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nướcGeneral Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [5][6] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h). Con tàu mang theo 359 tấn Anh (365 t) dầu đốt, cho phép di chuyển đến 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[7]
Vũ khí trang bị bao gồm pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[7][8] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.[7]
Trong khuôn khổ Chiến dịch Goodwood với ý định tiêu diệt thiết giáp hạm Đức Tirpitz đang ẩn náu trong vũng biển Altafjord, Na Uy, các tàu sân bay hộ tống Trumpeter (D09) và Nabob (D77), được Aylmer hộ tống, đã được phái đến biển Barents. Vào ngày 22 tháng 8, Nabob trúng ngư lôi, và chỉ mười phút sau đến phiên tàu hộ tống khu trục Bickerton, lúc này dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quânDonald MacIntyre kiêm nhiệm Tư lệnh Đội hộ tống 5; cả hai cuộc tấn công đều xuất phát từ tàu ngầm U-354, sử dụng kiểu ngư lôi dò âmG7es (T5).[10]Nabob tiếp tục di chuyển được bằng chính hệ thống động lực của mình với tốc độ trung bình 10 kn (19 km/h), và được hộ tống rút lui về Rosyth.[Note 2] Sau khi những nỗ lực nhằm cứu Bickerton được xem là quá mạo hiểm, nó bị tàu khu trụcHMS Vigilant phóng ba quả ngư lôi đánh chìm, và Trung tá MacIntyre sau đó chuyển cờ hiệu của mình sang Aylmer.[1]
Với mũi tàu bị hư hại sau cú húc, Aylmer được HMS Bligh và HMS Tyler hộ tống đi đến Holyhead, Wales để sửa chữa. Tuy nhiên do xưởng tàu tại đây quá nhỏ không có đủ khả năng, nó tiếp tục đi đến đến Liverpool. Khi công việc hoàn tất vào đầu tháng 4, nó quay lại tiếp nối vai trò soái hạm của Đội hộ tống 5. Nó đang có mặt tại cảng nhà Belfast vào ngày 8 tháng 5 khi chiến tranh kết thúc tại châu Âu, và đến ngày 10 tháng 5, nó được phái đến Loch Alsh, Scotland để hỗ trợ hoạt động bắt giữ thủy thủ đoàn các tàu ngầm U-boat.
^Cái tên USS Harmon sau đó được đặt lại cho chiếc USS Harmon (DE-678), một tàu hộ tống khu trục khác cùng thuộc lớp Buckley
^Tuy nhiên những hư hại mà Nabob chịu đựng nghiêm trọng đến mức nó được xem là một tổn thất toàn bộ, nên không được sửa chữa, và sau đó được sử dụng làm nguồn phụ tùng phục vụ cho những chiếc khác còn sống sót.