Những tàu frigate lớp Captain thuộc phân lớp Evarts có chiều dài chung 289 ft 5 in (88,21 m), mạn tàu rộng 35 ft 1 in (10,69 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 8 ft 3 in (2,51 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.140 tấn Anh (1.160 t); và lên đến 1.430 tấn Anh (1.450 t) khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ dieselGeneral Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất 6.000 hp (4.500 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 21 kn (24 mph; 39 km/h), và có dự trữ hành trình 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[3]
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[3]
Nhưng chỉ ba ngày sau, 29 tháng 2, 1944, trong thành phần Đội hộ tống 1, Gould cùng với Affleck, Gore và tàu frigate Garlies (K475) phát hiện ra chiếc U-358 tại vị trí về phía Bắc Tây Bắc quần đảo Azores, và bắt đầu tấn công bằng mìn sâu. Cuộc tấn công kéo dài suốt đêm cho đến sáng ngày 1 tháng 3, và bốn chiếc frigate đã thả tổng cộng 104 quả mìn. Gore và Garlies buộc phải rút lui về Gibraltar vào sáng ngày 1 tháng 3 để tiếp nhiên liệu, còn Affleck và Gould vẫn tiếp tục cuộc truy lùng.[1]