Andy Murray

Sir
Andy Murray
OBE
Murray tại giải 2015 Australian Open
Tên đầy đủAndrew Barron Murray
Quốc tịch Anh Quốc
Nơi cư trúLeatherhead, Surrey, Anh[1]
Sinh15 tháng 5, 1987 (37 tuổi)[2]
Glasgow, Scotland[3][4][5]
Chiều cao6 ft 3 in (1,91 m)[6][7][8][9]
Lên chuyên nghiệp2005[7]
Giải nghệ1 tháng 8 năm 2024
Tay thuậnTay phải (trái tay hai tay)
Huấn luyện viênIvan Lendl (2012–14, 2016–17, 2022–2023)[10]
Tiền thưởngUS $64,687,542[11]
Trang chủandymurray.com
Đánh đơn
Thắng/Thua739–262 (73.83%) (73.8%)[a]
Số danh hiệu46 (Xếp thứ 15 ở kỷ nguyên Mở)
Thứ hạng cao nhấtNo. 1 (7 tháng 11 năm 2016)
Thành tích đánh đơn Gland Slam
Úc Mở rộngF (2010, 2011, 2013, 2015, 2016)
Pháp mở rộngF (2016)
WimbledonW (2013, 2016)
Mỹ Mở rộngW (2012)
Các giải khác
ATP Tour FinalsW (2016)
Thế vận hộiW (2012, 2016)
Đánh đôi
Thắng/Thua83–86 (49.11%) (49.1%)
Số danh hiệu3
Thứ hạng cao nhấtNo. 51 (17 October 2011)
Thành tích đánh đôi Gland Slam
Úc Mở rộng1R (2006)
Pháp Mở rộng2R (2006)
Wimbledon2R (2019)
Mỹ Mở rộng2R (2008)
Giải đấu đôi khác
Thế vận hộiQF (2020, 2024)
Đôi nam nữ
Thắng/Thua7–4 (63.64%)
Số danh hiệu0
Kết quả đôi nam nữ Grand Slam
Wimbledon3R (2019)
Giải đôi nam nữ khác
Thế vận hộiF (2012)
Giải đồng đội
Davis CupW (2015)
Hopman CupF (2010)
Sự nghiệp huấn luyện (2024–)
Novak Djokovic (2024–)
Thành tích huy chương
Quần vợt nam
Đại diện cho  Anh Quốc
Olympic Games
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 2012 London Đơn nam
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 2016 Rio de Janeiro Đơn nam
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 2012 London Đôi nam nữ

Sir Andrew Barron Murray (sinh ngày 15 tháng 5 năm 1987), thường được gọi là Andy Murray, là một cựu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Scottland, Vương quốc Anh và hiện tại là huấn luyện viên.

Năm 2005, Andy giành được giải Nhân vật thể thao Scotland trong năm của BBC (BBC Scotland Sports Personality of the Year).

Trước đây, anh từng được huấn luyện bởi huấn luyện viên Brad Gilbert và Amélie Mauresmo.

Murray đại diện cho Vương quốc Anh trong các hoạt động thể thao của anh ấy và là người chiến thắng giải đấu Grand Slam ba lần, vô địch Thế vận hội hai lần, vô địch Davis Cup, người chiến thắng trong Chung kết ATP World Tour 2016, và cựu số 1 thế giới.

Murray đã đánh bại Novak Djokovic trong trận chung kết US Open 2012, trở thành cầu thủ người Anh đầu tiên kể từ năm 1977 và là người nam Anh đầu tiên kể từ năm 1936, để giành chiến thắng trong một giải đấu đơn Grand Slam. Murray cũng là người nam Anh đầu tiên giành được nhiều danh hiệu đơn Wimbledon kể từ Fred Perry năm 1936, chiến thắng giải đấu năm 2013 và 2016.

Murray là người giành huy chương vàng Thế vận hội mùa hè 20122016 đơn nam, khiến anh trở thành tay vợt duy nhất, dù là nam hay nữ, đã giành được hai danh hiệu đơn Olympic. Anh ấy đã góp mặt trong đội giành cúp Davis Cup của Anh năm 2015, thắng 11-0 trong các trận đấu của anh ấy (8 đơn và 3 đôi) khi họ bảo vệ danh hiệu Davis Cup đầu tiên của họ kể từ năm 1936.

Tuổi thơ

Anh bắt đầu chơi quần vợt từ năm 3 tuổi. Mẹ anh, bà Judy là một cựu tay vợt của Scotland và cha anh là ông William. Anh có một anh trai là Jamie Murray cũng là một tay vợt nhưng thường thi đấu ở thể loại đánh đôi.

Murray từng là học sinh của trường tiểu học Dunblane từ năm 1992 đến năm 1999. Năm 1999, anh học ở trường trung học Dunblane. Năm 11 đến 13 tuổi, Andy là thành viên của 3 đội quần vợt nhỏ tuổi tại câu lạc bộ Next Generation ở Newhaven, Edinburgh - nơi anh thi đấu thường xuyên. Vào tuổi 14, Murray đến BarcelonaTây Ban Nha, nơi anh đã học trường Schiller International và tập luyện trên mặt sân đất nện của học viện Sanchez-Casal, nơi mà anh được cho biệt danh "Lazy English" (người Anh lười). Murray giành giải nam trẻ tại US Open năm 2004 và tốt nghiệp sau đó một năm.

Sự nghiệp

2005

Tháng 3 năm 2005, lần đầu tiên Andy được gọi vào đội tuyển Davis Cup của Anh và trở thành tay vợt trẻ tuổi nhất của Anh tham dự Davis Cup. Murray và David Sherwood đã thắng cặp đôi của Israel - lúc đó đang đứng thứ 8 thế giới, vào đến bán kết Wimbledon năm 2003, giúp đội tuyển giành chiến thắng 3-2.

Tay vợt người Anh này vào đến bán kết giải trẻ Pháp mở rộng, để thua tay vợt người Croatia Marin Cilic. Điều này chứng tỏ đây là bước đột phá cuối cùng của anh tại giải trẻ Grand Slam.

Murray tham gia hầu hết tất cả các kết quả ATP tour đều đến từ mặt sân cỏ và mặt sân cứng, mặc dù anh thích chơi trên sân đất nện.

Wimbledon 2005

Anh đã đánh bại tay vợt xếp trên anh 150 bậc trong trận đấu Grand Slam đầu tiên lúc đó Murray đứng thứ 374 thế giới. Ở vòng 2, Andy thắng hạt giống thứ 14 Radek Štěpánek và chịu thua David Nalbandian ở vòng 3.

Mỹ mở rộng 2005

Tại đây Murray phải thi đấu vòng loại. Ở vòng 1, Murray đánh bại tay vợt người România Andrei Pavel trong 5 set đấu căng thẳng. Sau đó thua Arnaud Clement cũng trong 5 set. Đó là cú sốc cho Andy, nếu anh thắng trận đấu đó anh đã lọt vào top 100 lần đầu tiên trong đời.

Thái Lan mở rộng

Vào ngày 29 tháng 9 cuối cùng Andy lọt được vào top 100 thế giới khi đánh bại Robin Soderling tại giải Thái Lan mở rộng. Sau đó thắng Robby Ginepri. Lần đầu tiên vào chung kết sau khi thắng tay vợt chủ nhà Paradorn Srichaphan ở bán kết. Để thua Roger Federer ở chung kết nhưng dù sao anh cung trở thành tay vợt thứ 72 của thế giới.

2006

Murray bắt đầu mùa giải 2006 bằng viêc bị loại tại vòng 2 trong hai giải đấu, tiếp theo thua Juan Ignacio Chela ở vòng một Úc mở rộng trong lần đầu tiên tham dự. Giải SAP Mở rộng là nơi đem lại cho Andy danh hiệu ATP đầu tiên trong sự nghiệp, để đến được với danh hiệu đầu tiên Andy đă thắng cả hai cựu số 1 thế giới Andy RoddickLleyton Hewitt. Anh vào đến tứ kết giải đấu tiếp theo - giải Memphis. Nhưng phong độ này không duy trì lâu, anh để thua ngay trong vòng 1 tại sáu trong chín giải tham dự bao gồm giải Pháp mở rộng và giải của Queen's Club.

Tại Wimbledon, Andy vào tới vòng 4 ngay trong lần đầu tiên tham dự. Sau đó, Murray còn ghi tên mình vào bán kết Hall of Fame Championship ở Newport và chung kết Legg Mason Classic tại Washington. Là thành viên của đội tuyển Anh tham dự Davis Cup, Andy đánh bại Andy Ram của Israel - đây là lần thứ hai Andy thắng được trận đấu kéo dài 5 set.

Phong độ của Andy ngày càng được cải thiện, anh vào bán kết Toronto Master. Ở giải đấu tiếp theo - giải Cincinnati, Murray vào tứ kết khi thất bại trước Andy Roddick, nhưng trước đó đã loại tay vợt số 1 thế giới Roger Federer và trở thành một trong hai tay vợt có thể đánh bại Roger trong năm 2006. Giải grand slam cuối cùng trong năm, Andy tiếp tuc vào vòng 4, dừng bước trước tay vợt Nga Nikolay Davydenko trong 4 set.

Sự thất vọng khi để thua tay vợt đồng hương Tim Henman tại Thái Lan mở rộng được giãm bớt khi Andy cùng người anh Jamie vào đến chung kết ở thể loại đánh đôi.

Với những thành công trong năm 2006, Andy kết thúc mùa giải với thứ hạng 17.

2007

Tại Úc Mở rộng, Murray được xếp hạt giống số 15. Tại vòng 1, Murray vượt qua tay vợt Tây Ban Nha Alberto Martín 6–0, 6–0, 6–1, đây cũng là chiến thắng áp đảo nhất tại Giải Úc Mở rộng từ năm 1968. Đối thủ tại vòng 4 của anh là tay vợt số 2 thế giới Rafael Nadal, trước đây hai tay vợt này chưa từng gặp nhau. Sau khi dẫn trước với 2-1, Murray thua Nadal (6(3)-7(7), 6–4, 4–6, 6–3, 6–1). Sau trận đấu, Murray nhận xét đây là một trong trận đấu hay nhất của anh từ trước đến nay.[12]

Andy Murray bảo vệ thành công danh hiệu tại San Jose, thắng Ivo Karlović 6–7 (3–7) 6–4 7–6 (7–2) trong trận chung kết. Anh trai của Murray, Jamie cũng đồng thời giành danh hiệu đôi tại đây. Anh em Murray trở thành cặp anh em đầu tiên giành danh hiệu đơn và đôi trong cùng một giải đấu kể từ năm 1989.[13]

Murray vào tới bán kết hai giải đấu tiếp theo là Indian Wells MastersMiami Masters. Trong cả hai lần Murray đều phải dừng bước trước Novak Djokovic. Tuy nhiên, Murray vẫn vươn lên vị trí thứ 11 trên bảng xếp hạng thế giới.

2008

Murray mở đầu mùa giải 2008 với danh hiệu thứ 4 trong sự nghiệp tại giải Qatar ExxonMoblie Open. Chiến thắng hạt giống số 1 và hạng 4 thế giới Nikolay Davydenko 6-4 6-3 ở bán kết, Murray tự tin tiến thẳng vào chung kết đánh bại tay vợt Thụy Sĩ Stanislas Wawrinka 6-4 4-6 6-2. Danh hiệu tại Qatar giúp Andy lọt vào top 10 thế giới.

Murray tại giải Pacific Life Open 2008.

Andy Murray được xếp là hạt giống số 9 tại giải Giải quần vợt Úc mở rộng. Trái với dự đoán của nhiều người, Andy phải chia tay giải ngay từ vòng 1 khi thua tay vợt người Pháp Jo-Wilfried Tsonga 7-5, 6-4, 0-6, 7-6.

Sau khi thất bại tại vòng 1 Úc Mở rộng, Murray gặp phải chấn thương ở đầu gối khiến anh phải rút tên trong danh sách đội tuyển Anh tham dự Davis Cup.

Đầu tháng 2, Murray tham gia giải Open 13 tại Marseille, Pháp. Tuy vừa dính chấn thương đầu gối nhưng anh vẫn lọt chung kết, Murray gặp cựu số 7 thế giới, Mario Ancic và chiến thắng thuyết phục 6-3, 6-4. Danh hiệu tại Marseille là danh hiệu thứ 2 trong năm của Murray và cũng là danh hiệu thứ 5 trong sự nghiệp.

Giải ABN Amro Tournament tại Rotterdam, hạt giống số 6 - Andy Murray bị loại ngay vòng đầu khi thua tay vợt chủ nhà Robin Haase.

Không được xếp làm hạt giống tại giải Dubai Tennis Championship, Murray gặp tay vợt số 1 thế giới Roger Federer. Murray trở thành một trong số ít tay vợt có thành tích đối đầu trội hơn so với Federer khi chiến thắng 7-6(6), 3-6, 4-6. Murray dừng bước ở tứ kết khi thua Davydenko 7-5, 6-4.

Giải Master Series đầu tiên trong năm, Indian Wells, Murray không lập lại thành tích năm ngoái khi dừng chân tại vòng 4 trước tay vợt người Đức Tommy Haas 6-2 5-7 3-6. Giải Sony Ericsson Open tại Miami, Murray thất bại trước Mario Ancic tại vòng hai, Murray không còn nằm trong top 20 bảng xếp hạng ATP.

Murray với danh hiệu Masters Series đầu tiên.

Để cải thiện thành tích của mình trên mặt sân đất nện, Murray bắt đầu làm việc với cựu á quân Pháp mở rộng Alex Corretja. Tuy nhiên, dưới sự huấn luyện của Corretja, Murray cũng không thể đạt thành tích nào cao hơn là vòng 3 Giải quần vợt Pháp Mở rộng.

Mùa giải trên mặt sân cỏ bắt đầu với Andy Murray tại Queen's Club Championships, anh lọt vào vòng tứ kết nhưng phải rút lui vì chấn thương cổ tay. Tại Wimbledon, hạt giống số 12, Andy Murray đánh bại Fabrice Santoro, Xavier Malisse và Tommy Hass trước khi thực hiện cuộc lội ngược dòng trước tay vợt Pháp Richard Gasquet 5–7, 3–6, 7–6(3), 6–2, 6–4. Trong trận tứ kết Grand Slam đầu tiên, anh phải gác vợt với tỉ số 6–3, 6–2, 6–4 trước Rafael Nadal.

Trở lại mặt sân cứng sở trường, Murray giành suất vào bán kết Toronto Masters khi lần đầu tiên chiến thắng trước tay vợt số 3 thế giới Novak Djokovic, nhưng lại lần thứ hai liên tiếp thua trận trước Nadal. Với phong độ cao, Murray giành danh hiệu Masters Series đầu tiên tại Cincinnati Masters, đánh bại Djokovic 7-6(4) 7-6(5).[14]

Cùng anh trai Jamie, Andy Murray đại diện Vương quốc Anh tham dự Olympic Bắc Kinh 2008. Bất ngờ xảy ra khi Murray, hạt giống số sáu, bị loại ngay vòng một.[15] Ở nội dung đánh đôi, anh em Murray cũng sớm dứng bước tại vòng hai.

Tại Mỹ Mở rộng 2008, Murray lội ngược dòng chiến thắng tay vợt Jurgen Melzer 6-7(5), 4-6, 7-6(5), 6-1, 6-3 để vào vòng bốn. Vòng bán kết, Murray chạm trán tân số một thế giới Rafael Nadal, tay vợt đánh bại anh năm lần gặp trước, nhưng người chiến thắng lại là Andy Murray với tỉ số 6–2, 7–6(5), 4–6, 6–4. Murray trở thành tay vợt đầu tiên của Vương quốc Anh lọt vào trận chung kết một giải Grand Slam kể từ khi Greg Rusedski lọt vào chung kết Mỹ Mở rộng năm 1997. Mặc dù chịu thất bại trước Roger Federer, Murray vẫn vươn lên vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng thế giới.

Với tư cách hạt giống thứ 4, Andy Murray được miễn thi đấu vòng một, tại Madrid Masters. Murray dễ dàng đi tiếp sau khi đối thủ Simone Bolelli bỏ cuộc do chấn thương vai. Đánh bại các tay vợt Marin Cilic, Gael Monfils mà chưa thua set nào. Murray vào bán kết gặp lại đối thủ trong trận chung kết Mỹ Mở rộng 2008, Roger Federer. Qua 3 set đấu căng thẳng, Murray giành chiến thắng 3-6 6-3 7-5. Với phong độ cao, anh vượt qua tay vợt Pháp Gilles Simon 6–4 7–6 (8-6), giành danh hiệu Master Series thứ hai liên tiếp. Murray trở thành tay vợt Vương quốc Anh đầu tiên giành 4 danh hiệu trong cùng một mùa giải.

2011

Tại Australia Open 2011, Andy Murray lọt vào trận chung kết lần thứ 2 liên tiếp nhưng dường như sức ép quá lớn từ người hâm mộ xứ sương mù đã ảnh hưởng khá nặng nề lên tâm lý thi đấu của Murray khiến cho anh không còn giữ được phong độ và cuối cùng đành gác vợt nhanh chóng trước Novak Djokovic. Thất bại này là một đòn gián đau đớn vào tham vọng cũng như tinh thần của Murray, kể từ thất bại này anh bắt đầu thi đấu sa sút với chuỗi trận thua liên tiếp ở các giải ABN Amro Tournament tại Rotterdam, Indian wells và Miami. Nhưng khán giả hâm mộ Murray thì vẫn luôn cổ vũ anh và chờ đợi sự trở lại mạnh mẽ hơn của anh ở những giải đấu tiếp theo.

2012

Năm 2012 có thể nói là một năm đặc biệt thành công của Andy Murray, sau thất bại đầy nước mắt tại chung kết Wimbledon 2012 trên sân nhà trước Roger Federer anh đã xuất sắc đoạt Huy chương Vàng Olympic London cho đất nước ngay tại Vương quốc Anh, và còn xuất sắc hơn khi chỉ hơn 1 tháng sau một lần nữa anh chiến thắng trong trận chung kết giải Mỹ mở rộng 2012 trước Novak Djokovic với tỉ số 3-2 để lần đầu tiên giương cao chiếc cúp dành cho tay vợt đoạt Grand Slam. Người hâm mộ hy vọng đây sẽ là một cột mốc để Andy Murray có thể chinh phục được nhiều đỉnh cao mới trong các năm sau.

2013

Andy Murray đã trở thành tay vợt nam đầu tiên trong 77 năm của làng quần vợt vương quốc Anh giành chức vô địch Wimbledon sau khi anh đánh bại Djokovic 3-0 (6-4, 7-5, 6-4) trong trận chung kết.[16]

2015

Năm 2015 Murray thi đấu khá tốt. Anh lọt vào chung kết Australian Open nhưng để thua Novak Djokovic sau 4 set. Anh dừng bước ở tứ kết 2 giải Grand Slam tiếp theo là Roland Garros và Wimbledon.Ở US Open anh dừng bước tại bán kết trước Novak Djokovic. Đỉnh cao của Andy Murray trong năm 2015 chính là chức vô địch giải quần vọt đồng đội Davis Cup của với đội tuyển Vương Quốc Anh. Anh chiến thắng 2 trận đánh đơn với các tay vợt của đội tuyển Bỉ và 1 trận đánh đôi cùng người đồng đội là anh trai Jamie Murray. Andy Murray cũng lần đầu tiên kết thúc năm với vị trí số 2 trên bảng xếp hạng ATP

2016

Đoàn vận động viên Vương quốc Liên hiệp Anh diễn hành tại Lễ khai mạc Thế vận hội Mùa hè 2016 (với Andy Murray cầm cờ).

Năm 2016 đến với Andy Murray sau niềm vui tại Davis Cup. Anh thi đấu rất tốt tại Australian Open và lọt tới trận chung kết nơi anh gặp Tay vợt số 1 thế giới Novak Djokovic. Thêm một lần anh thất bại trong trận chung kết Australian Open trước Novak Djokovic. Trước giải Grand Slam thứ 2 Roland Garros, anh thi đấu khá tốt ở các giải ATP 1000, lọt vào 3 trận chung kết Monte Carlo, Madrid Master và Rome Master. Anh đã giành chức vô địch trên sân đất nện lần đầu tiên sau khi đánh bại Novak Djokovic tại Chung kết tại Rome. Anh tiếp tục thi đấu xuất sắc tại Roland Garros và đi tới trận chung kết. Mặc dù đã thắng set đấu đầu nhưng anh vẫn chịu gác vợt trước Novak Djokovic tại chung kết. Murray đến với giải Grand Slam thứ 3 trong năm là Wimbledon với mục tiêu lật đổ Djokovic sau những trận chung kết thất bại. Murray lần lượt vượt qua các đối thủ khá dễ dàng và góp mặt trong trận chung kết Grand Slam lần thứ 3 trong năm. Nhưng lần này đối thủ của anh không còn là Novak Djokovic khi Djokovic bị loại từ vòng 3 mà đối thủ của anh là tay vợt người Canada Milos Raonic. Raonic đã ngược dòng đánh bại Roger Federer để vào chung kết. Nhưng trong trận chung kết Grand Slam đầu tiên của Raonic anh đã chịu thất bại trong vòng 3 set trước Andy Murray. Đây là một chung kết tuyệt vời của Murray và anh đã giành đã danh hiệu Grand Slam thứ 3 trong sự nghiệp trên quê nhà.

Murray cũng đạt huy chương vàng tại nội dung Quần vợt tại Thế vận hội Mùa hè 2016.

Chung kết Grand Slam

Đơn: 11 (3 danh hiệu, 8 á quân)

Kết quả Năm Giải đấu Mặt sân Đối thủ Tỷ số
Thua 2008 US Open Cứng Thụy Sĩ Roger Federer 2–6, 5–7, 2–6
Thua 2010 Australian Open Cứng Thụy Sĩ Roger Federer 3–6, 4–6, 6–7(11–13)
Thua 2011 Australian Open Cứng Serbia Novak Djokovic 4–6, 2–6, 3–6
Thua 2012 Wimbledon Cỏ Thụy Sĩ Roger Federer 6–4, 5–7, 3–6, 4–6
Thắng 2012 US Open Cứng Serbia Novak Djokovic 7–6(12–10), 7–5, 2–6, 3–6, 6–2
Thua 2013 Australian Open Cứng Serbia Novak Djokovic 7–6(7–2), 6–7(3–7), 3–6, 2–6
Thắng 2013 Wimbledon Cỏ Serbia Novak Djokovic 6–4, 7–5, 6–4
Thua 2015 Australian Open Cứng Serbia Novak Djokovic 6–7(5–7), 7–6(7–4), 3–6, 0–6
Thua 2016 Australian Open Cứng Serbia Novak Djokovic 1–6, 5–7, 6–7(3–7)
Thua 2016 French Open Đất nện Serbia Novak Djokovic 6–3, 1–6, 2–6, 4–6
Thắng 2016 Wimbledon (2) Grass Canada Milos Raonic 6–4, 7–6(7–3), 7–6(7–2)

Các trận chung kết quan trọng khác

Chung kết ATP Finals

Đơn: 1 (1 danh hiệu)

Kết quả Năm Giải đấu Mặt sân Đối thủ Tỷ số
Thắng 2016 ATP World Tour Finals, London Cứng (i) Serbia Novak Djokovic 6–3, 6–4

Chung kết ATP Masters 1000

Đơn: 21 (14 danh hiệu, 7 á quân)

Murray won the first of his 14 Masters titles in Cincinnati
Kết quả Năm Giải đấu Mặt sân Đối thủ Tỷ số
Thắng 2008 Cincinnati Open Cứng Serbia Novak Djokovic 7–6(7–4), 7–6(7–5)
Thắng 2008 Madrid Open Cứng (i) Pháp Gilles Simon 6–4, 7–6(8–6)
Thua 2009 Indian Wells Open Cứng Tây Ban Nha Rafael Nadal 1–6, 2–6
Thắng 2009 Miami Open Cứng Serbia Novak Djokovic 6–2, 7–5
Thắng 2009 Canadian Open Cứng Argentina Juan Martín del Potro 6–7(4–7), 7–6(7–3), 6–1
Thắng 2010 Canadian Open (2) Cứng Thụy Sĩ Roger Federer 7–5, 7–5
Thắng 2010 Shanghai Masters Cứng Thụy Sĩ Roger Federer 6–3, 6–2
Thắng 2011 Cincinnati Open (2) Cứng Serbia Novak Djokovic 6–4, 3–0 Ret.
Thắng 2011 Shanghai Masters (2) Cứng Tây Ban Nha David Ferrer 7–5, 6–4
Thua 2012 Miami Open Cứng Serbia Novak Djokovic 1–6, 6–7(4–7)
Thua 2012 Shanghai Masters Cứng Serbia Novak Djokovic 7–5, 6–7(11–13), 3–6
Thắng 2013 Miami Open (2) Cứng Tây Ban Nha David Ferrer 2–6, 6–4, 7–6(7–1)
Thua 2015 Miami Open Cứng Serbia Novak Djokovic 6–7(3–7), 6–4, 0–6
Thắng 2015 Madrid Open (2) Đất nện Tây Ban Nha Rafael Nadal 6–3, 6–2
Thắng 2015 Canadian Open (3) Cứng Serbia Novak Djokovic 6–4, 4–6, 6–3
Thua 2015 Paris Masters Cứng (i) Serbia Novak Djokovic 2–6, 4–6
Thua 2016 Madrid Open Đất nện Serbia Novak Djokovic 2–6, 6–3, 3–6
Thắng 2016 Italian Open Đất nện Serbia Novak Djokovic 6–3, 6–3
Thua 2016 Cincinnati Open Cứng Croatia Marin Čilić 4–6, 5–7
Thắng 2016 Shanghai Masters (3) Cứng Tây Ban Nha Roberto Bautista Agut 7–6(7–1), 6–1
Thắng 2016 Paris Masters Cứng (i) Hoa Kỳ John Isner 6–3, 6–7(4–7), 6–4

Đôi: 1 (1 á quân)

Kết quả Năm Giải đấu Mặt sân Đồng đội Đối thủ Tỷ số
Thua 2013 Canadian Open Cứng Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Colin Fleming Áo Alexander Peya
Brasil Bruno Soares
4–6, 6–7(4–7)

Trận tranh huy chương Olympic

Đơn: 2 (2 huy chương vàng)

Kết quả Năm Giải đấu Mặt sân Đối thủ Tỷ số
Gold 2012 Summer Olympics Cỏ Thụy Sĩ Roger Federer 6–2, 6–1, 6–4
Gold 2016 Summer Olympics (2) Cứng Argentina Juan Martín del Potro 7–5, 4–6, 6–2, 7–5

Đôi nam nữ: 1 (1 huy chương bạc)

Kết quả Năm Giải đấu Mặt sân Đồng đội Đối thủ Tỷ số
Silver 2012 Summer Olympics Cỏ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Laura Robson Belarus Victoria Azarenka
Belarus Max Mirnyi
6–2, 3–6, [8–10]

Chung kết giải đồng đội

Finals by tournaments
Davis Cup (1–0)
Laver Cup (0–1)
Hopman Cup (0–1)

Đội
Vương quốc Anh (1–1)
Châu Âu (0–1)
Kết quả    Ngày    Giải đấu Mặt sân Đội Đồng đội Đội đối thủ Tay vợt đối thủ Tỷ số
Thua 2010 Hopman Cup, Australia Cứng (i)  Anh Quốc Laura Robson  Tây Ban Nha María José Martínez Sánchez
Tommy Robredo
1–2[17]
Thắng 2015 Davis Cup, Bỉ Đất nện (i)  Anh Quốc Jamie Murray
Kyle Edmund
James Ward
 Bỉ David Goffin
Steve Darcis
Ruben Bemelmans
Kimmer Coppejans
3–1
Thua 2022 Laver Cup, Vương quốc Anh Cứng (i) Đội Châu Âu Casper Ruud
Rafael Nadal
Stefanos Tsitsipas
Novak Djokovic
Roger Federer
Matteo Berrettini
Cameron Norrie
Đội thế giới Taylor Fritz
Félix Auger-Aliassime
Diego Schwartzman
Frances Tiafoe
Alex de Minaur
Jack Sock
8–13

Chung kết ATP

Đơn: 71 (46 danh hiệu, 25 á quân)

Giải đấu
Grand Slam tournaments (3–8)
ATP Tour Finals (1–0)
ATP Tour Masters 1000 (14–7)
Olympic Games (2–0)
ATP Tour 500 Series (9–1)
ATP Tour 250 Series (17–9)
Mặt sân
Cứng (34–21)
Đất nện (3–2)
Cỏ (8–2)
Thảm (1–0)
Kiểu sân
Ngoài trời (31–22)
Trong nhà (15–3)
Kết quả Thắng-Thua    Ngày    Giải đấu Cấp độ Mặt sân Đối thủ Tỷ số Ref
Thua 0–1 Th10 năm 2005 Thailand Open, Thái Lan International Cứng (i) Thụy Sĩ Roger Federer 3–6, 5–7
Thắng 1–1 Th2 năm 2006 Pacific Coast Championships, Mỹ International Cứng (i) Úc Lleyton Hewitt 2–6, 6–1, 7–6(7–3)
Thua 1–2 Th8 năm 2006 Washington Open, Mỹ International Cứng Pháp Arnaud Clément 6–7(3–7), 2–6
Thua 1–3 Th1 năm 2007 Qatar Open, Qatar International Cứng Croatia Ivan Ljubičić 4–6, 4–6
Thắng 2–3 Th2 năm 2007 Pacific Coast Championships, Mỹ (2) International Cứng (i) Croatia Ivo Karlović 6–7(3–7), 6–4, 7–6(7–2)
Thua 2–4 Th10 năm 2007 Open de Moselle, Pháp International Cứng (i) Tây Ban Nha Tommy Robredo 6–0, 2–6, 3–6
Thắng 3–4 Th10 năm 2007 St. Petersburg Open, Nga International Thảm (i) Tây Ban Nha Fernando Verdasco 6–2, 6–3
Thắng 4–4 Th1 năm 2008 Qatar Open, Qatar International Cứng Thụy Sĩ Stan Wawrinka 6–4, 4–6, 6–2
Thắng 5–4 Th2 năm 2008 Open 13, Pháp International Cứng (i) Croatia Mario Ančić 6–3, 6–4
Thắng 6–4 Th8 năm 2008 Cincinnati Open, Mỹ Masters Cứng Serbia Novak Djokovic 7–6(7–4), 7–6(7–5)
Thua 6–5 Th9 năm 2008 US Open, Mỹ Grand Slam Cứng Thụy Sĩ Roger Federer 2–6, 5–7, 2–6
Thắng 7–5 Th10 năm 2008 Madrid Open, Tây Ban Nha Masters Cứng (i) Pháp Gilles Simon 6–4, 7–6(8–6)
Thắng 8–5 Th10 năm 2008 St. Petersburg Open, Nga (2) International Cứng (i) Kazakhstan Andrey Golubev 6–1, 6–1
Thắng 9–5 Th1 năm 2009 Qatar Open, Qatar (2) 250 Series Cứng Hoa Kỳ Andy Roddick 6–4, 6–2
Thắng 10–5 Th2 năm 2009 Rotterdam Open, Hà Lan 500 Series Cứng (i) Tây Ban Nha Rafael Nadal 6–3, 4–6, 6–0
Thua 10–6 Th3 năm 2009 Indian Wells Open, Mỹ Masters 1000 Cứng Tây Ban Nha Rafael Nadal 1–6, 2–6
Thắng 11–6 Th4 năm 2009 Miami Open, Mỹ Masters 1000 Cứng Serbia Novak Djokovic 6–2, 7–5
Thắng 12–6 Th6 năm 2009 Queen's Club Championships, Vương quốc Anh 250 Series Cỏ Hoa Kỳ James Blake 7–5, 6–4
Thắng 13–6 Th8 năm 2009 Canadian Open, Canada Masters 1000 Cứng Argentina Juan Martín del Potro 6–7(4–7), 7–6(7–3), 6–1
Thắng 14–6 Th11 năm 2009 Valencia Open, Tây Ban Nha 500 Series Cứng (i) Nga Mikhail Youzhny 6–3, 6–2
Thua 14–7 Th1 năm 2010 Australian Open, Australia Grand Slam Cứng Thụy Sĩ Roger Federer 3–6, 4–6, 6–7(11–13)
Thua 14–8 Th8 năm 2010 Los Angeles Open, Mỹ 250 Series Cứng Hoa Kỳ Sam Querrey 7–5, 6–7(2–7), 3–6
Thắng 15–8 Th8 năm 2010 Canadian Open, Canada (2) Masters 1000 Cứng Thụy Sĩ Roger Federer 7–5, 7–5
Thắng 16–8 Th10 năm 2010 Shanghai Masters, Trung Quốc Masters 1000 Cứng Thụy Sĩ Roger Federer 6–3, 6–2
Thua 16–9 Th1 năm 2011 Australian Open, Australia Grand Slam Cứng Serbia Novak Djokovic 4–6, 2–6, 3–6
Thắng 17–9 Th6 năm 2011 Queen's Club Championships, Vương quốc Anh (2) 250 Series Cỏ Pháp Jo-Wilfried Tsonga 3–6, 7–6(7–2), 6–4
Thắng 18–9 Th8 năm 2011 Cincinnati Open, Mỹ (2) Masters 1000 Cứng Serbia Novak Djokovic 6–4, 3–0 ret.
Thắng 19–9 Th10 năm 2011 Thailand Open, Thái Lan 250 Series Cứng (i) Hoa Kỳ Donald Young 6–2, 6–0
Thắng 20–9 Th10 năm 2011 Japan Open, Japan 500 Series Cứng Tây Ban Nha Rafael Nadal 3–6, 6–2, 6–0
Thắng 21–9 Th10 năm 2011 Shanghai Masters, China (2) Masters 1000 Cứng Tây Ban Nha David Ferrer 7–5, 6–4
Thắng 22–9 Th1 năm 2012 Brisbane International, Australia 250 Series Cứng Ukraina Alexandr Dolgopolov 6–1, 6–3
Thua 22–10 Th3 năm 2012 Dubai Tennis Championships, UAE 500 Series Cứng Thụy Sĩ Roger Federer 5–7, 4–6
Thua 22–11 Th4 năm 2012 Miami Open, Mỹ Masters 1000 Cứng Serbia Novak Djokovic 1–6, 6–7(4–7)
Thua 22–12 Th7 năm 2012 Wimbledon, Vương quốc Anh Grand Slam Cỏ Thụy Sĩ Roger Federer 6–4, 5–7, 3–6, 4–6
Thắng 23–12 Th8 năm 2012 Olympic Games, Vương quốc Anh Olympics Cỏ Thụy Sĩ Roger Federer 6–2, 6–1, 6–4
Thắng 24–12 Th9 năm 2012 US Open, US Grand Slam Cứng Serbia Novak Djokovic 7–6(12–10), 7–5, 2–6, 3–6, 6–2
Thua 24–13 Th10 năm 2012 Shanghai Masters, Trung Quốc Masters 1000 Cứng Serbia Novak Djokovic 7–5, 6–7(11–13), 3–6 [36]
Thắng 25–13 Th1 năm 2013 Brisbane International, Australia (2) 250 Series Cứng Bulgaria Grigor Dimitrov 7–6(7–0), 6–4
Thua 25–14 Th1 năm 2013 Australian Open, Australia Grand Slam Cứng Serbia Novak Djokovic 7–6(7–2), 6–7(3–7), 3–6, 2–6
Thắng 26–14 Th3 năm 2013 Miami Open, Mỹ (2) Masters 1000 Cứng Tây Ban Nha David Ferrer 2–6, 6–4, 7–6(7–1)
Thắng 27–14 Th6 năm 2013 Queen's Club Championships, Vương quốc Anh (3) 250 Series Cỏ Croatia Marin Čilić 5–7, 7–5, 6–3
Thắng 28–14 Th7 năm 2013 Wimbledon, Vương quốc Anh Grand Slam Cỏ Serbia Novak Djokovic 6–4, 7–5, 6–4
Thắng 29–14 Th9 năm 2014 Shenzhen Open, Trung Quốc 250 Series Cứng Tây Ban Nha Tommy Robredo 5–7, 7–6(11–9), 6–1
Thắng 30–14 Th10 năm 2014 Vienna Open, Áo 250 Series Cứng (i) Tây Ban Nha David Ferrer 5–7, 6–2, 7–5
Thắng 31–14 Th10 năm 2014 Valencia Open, Tây Ban Nha (2) 500 Series Cứng (i) Tây Ban Nha Tommy Robredo 3–6, 7–6(9–7), 7–6(10–8)
Thua 31–15 Th2 năm 2015 Australian Open, Australia Grand Slam Cứng Serbia Novak Djokovic 6–7(5–7), 7–6(7–4), 3–6, 0–6
Thua 31–16 Th4 năm 2015 Miami Open, Mỹ Masters 1000 Cứng Serbia Novak Djokovic 6–7(3–7), 6–4, 0–6
Thắng 32–16 tháng 5 năm 2015 Bavarian Championships, Đức 250 Series Đất nện Đức Philipp Kohlschreiber 7–6(7–4), 5–7, 7–6(7–4)
Thắng 33–16 tháng 5 năm 2015 Madrid Open, Tây Ban Nha (2) Masters 1000 Đất nện Tây Ban Nha Rafael Nadal 6–3, 6–2
Thắng 34–16 Th6 năm 2015 Queen's Club Championships, Vương quốc Anh (4) 500 Series Cỏ Cộng hòa Nam Phi Kevin Anderson 6–3, 6–4
Thắng 35–16 Th8 năm 2015 Canadian Open, Canada (3) Masters 1000 Cứng Serbia Novak Djokovic 6–4, 4–6, 6–3
Thua 35–17 Th11 năm 2015 Paris Masters, Pháp Masters 1000 Cứng (i) Serbia Novak Djokovic 2–6, 4–6
Thua 35–18 Th1 năm 2016 Australian Open, Australia Grand Slam Cứng Serbia Novak Djokovic 1–6, 5–7, 6–7(3–7)
Thua 35–19 tháng 5 năm 2016 Madrid Open, Tây Ban Nha Masters 1000 Đất nện Serbia Novak Djokovic 2–6, 6–3, 3–6
Thắng 36–19 tháng 5 năm 2016 Italian Open, Ý Masters 1000 Đất nện Serbia Novak Djokovic 6–3, 6–3
Thua 36–20 Th6 năm 2016 French Open, Pháp Grand Slam Đất nện Serbia Novak Djokovic 6–3, 1–6, 2–6, 4–6
Thắng 37–20 Th6 năm 2016 Queen's Club Championships, Vương quốc Anh (5) 500 Series Cỏ Canada Milos Raonic 6–7(5–7), 6–4, 6–3
Thắng 38–20 Th7 năm 2016 Wimbledon, Vương quốc Anh (2) Grand Slam Cỏ Canada Milos Raonic 6–4, 7–6(7–3), 7–6(7–2)
Thắng 39–20 Th8 năm 2016 Olympic Games, Brazil (2) Olympics Cứng Argentina Juan Martín del Potro 7–5, 4–6, 6–2, 7–5
Thua 39–21 Th8 năm 2016 Cincinnati Open, Mỹ Masters 1000 Cứng Croatia Marin Čilić 4–6, 5–7
Thắng 40–21 Th10 năm 2016 China Open, Trung Quốc 500 Series Cứng Bulgaria Grigor Dimitrov 6–4, 7–6(7–2)
Thắng 41–21 Th10 năm 2016 Shanghai Masters, Trung Quốc (3) Masters 1000 Cứng Tây Ban Nha Roberto Bautista Agut 7–6(7–1), 6–1
Thắng 42–21 Th10 năm 2016 Vienna Open, Áo (2) 500 Series Cứng (i) Pháp Jo-Wilfried Tsonga 6–3, 7–6(8–6)
Thắng 43–21 Th11 năm 2016 Paris Masters, Pháp Masters 1000 Cứng (i) Hoa Kỳ John Isner 6–3, 6–7(4–7), 6–4
Thắng 44–21 Th11 năm 2016 ATP World Tour Finals, Vương quôc Anh Tour Finals Cứng (i) Serbia Novak Djokovic 6–3, 6–4
Thua 44–22 Th1 năm 2017 Qatar Open, Qatar 250 Series Cứng Serbia Novak Djokovic 3–6, 7–5, 4–6
Thắng 45–22 Th3 năm 2017 Dubai Tennis Championships, UAE 500 Series Cứng Tây Ban Nha Fernando Verdasco 6–3, 6–2
Thắng 46–22 Th10 năm 2019 European Open, Bỉ 250 Series Cứng (i) Thụy Sĩ Stan Wawrinka 3–6, 6–4, 6–4
Thua 46–23 Th1 năm 2022 Sydney International, Australia 250 Series Cứng Nga Aslan Karatsev 3–6, 3–6
Thua 46–24 Th6 năm 2022 Stuttgart Open, Đức 250 Series Cỏ Ý Matteo Berrettini 4–6, 7–5, 3–6
Thua 46–25 Th2 năm 2023 Qatar Open, Qatar 250 Series Cứng Daniil Medvedev 4–6, 4–6

Đôi: 5 (3 danh hiệu, 2 á quân)

Giải đấu
Grand Slam tournaments (0–0)
ATP Tour Finals (0–0)
ATP Tour Masters 1000 (0–1)
ATP Tour 500 Series (3–0)
ATP Tour 250 Series (0–1)
Mặt sân
Cứng (2–2)
Đất nện (0–0)
Cỏ (1–0)
Thảm (0–0)
Kiểu sân
Ngoài trời (2–1)
Trong nhà (1–1)
Kết quả Thắng-Thua    Ngày    Giải đấu Cấp độ Mặt sân Đồng đội Đối thủ Tỷ số Ref
Thua 0–1 Th10 năm 2006 Thailand Open, Thái Lan International Cứng (i) Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Jamie Murray Israel Jonathan Erlich
Israel Andy Ram
2–6, 6–2, [4–10]
Thắng 1–1 Th11 năm 2010 Valencia Open, Tây Ban Nha 500 Series Cứng (i) Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Jamie Murray Ấn Độ Mahesh Bhupathi
Belarus Max Mirnyi
7–6(10–8), 5–7, [10–7]
Thắng 2–1 Th10 năm 2011 Japan Open, Nhật Bản 500 Series Cứng Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Jamie Murray Cộng hòa Séc František Čermák
Slovakia Filip Polášek
6–1, 6–4
Thua 2–2 Th8 năm 2013 Canadian Open, Canada Masters 1000 Cứng Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Colin Fleming Áo Alexander Peya
Brasil Bruno Soares
4–6, 6–7(4–7)
Thắng 3–2 Th6 năm 2019 Queen's Club Championships, Vương quốc Anh 500 Series Cỏ Tây Ban Nha Feliciano López Hoa Kỳ Rajeev Ram
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Joe Salisbury
7–6(8–6), 5–7, [10–5]

Các Giải Đấu

Giải đấu 2005 2006 2007 2008 Career SR Thắng / thua
Úc Mở rộng A V1 V4 V1 0 / 3 3-3
Pháp Mở rộng A V1 A V3 0 / 2 2-2
Wimbledon V3 V4 A TK 0 / 3 9-3
Mỹ Mở rộng V2 V4 V3 CK 0 / 4 12-4
Grand Slam SR 0 / 2 0 / 4 0 / 2 0 / 4 0 / 12 N/A
Grand Slam thắng thua 3-2 6-4 5-2 12-4 N/A 20-11
Tennis Masters Cup A A A 0 / 0 0-0
Indian Wells Masters A V2 BK V4 0 / 3 7-3
Miami Masters A V1 BK V2 0 / 3 4-3
Monte Carlo Masters A V1 A V3 0 / 1 0-1
Rome Masters A V1 V1 V2 0 / 2 0-2
Hamburg Masters A V2 V1 V3 0 / 2 1-2
Canada Masters A BK V2 BK 0 / 3 8-3
Cincinnati Masters V2 TK V1 T 1 / 4 10-3
Madrid Masters (Stuttgart) A V3 V3 T 1 / 3 10-2
Paris Masters A V3 TK 0 / 2 3-2
Danh hiệu 0 1 2 4 N/A 7
Thắng / Thua trên sân cứng 7-4 26-14 25-7 14-5 N/A 83-35
Thắng / Thua trên sân cỏ 5-3 9-4 0-0 6-1 N/A 20-8
Thắng / Thua trên sân thảm 2-1 1-2 0-0 0-0 N/A 3-3
Thắng / Thua trên sân đất nện 0-2 4-5 0-2 7-5 N/A 11-14
Thắng / Thua 14-10 40-25 29-10 27-11 N/A 124–60
Xếp hạng cuồi năm 63 17 11 N/A N/A
  1. A: không tham dự giải Career SR: tỷ lệ số lần thắng trên số lần tham dự

Chú thích

  1. ^ “Andy Murray vows he will never be a 'tax exile'. The Scotsman. 6 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2018.
  2. ^ ,. ukwhoswho.com. Who's Who. 2015 . A & C Black, một chi nhánh của Bloomsbury Publishing plc.
  3. ^ “Andy Murray Biography”. A&E Television Networks. 2 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2015.
  4. ^ “Scottish Roots: Scottish Family Tree History: Andy Murray”. Scottishroots.com. 15 tháng 5 năm 1987. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2013.
  5. ^ Hodgkinson, Mark (2013). Andy Murray Wimbledon Champion: The Full and Extraordinary Story. Simon and Schuster. ISBN 978-1-4711-3275-9. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2017.
  6. ^ “Wimbledon Tennis Tournament official website”. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2014.
  7. ^ a b “Andy Murray”. ATP Tour. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2022.
  8. ^ “Tournoi de Roland-Garros official website”. Roland Garros. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2014.
  9. ^ “Australian Open official website”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2014.
  10. ^ “Andy Murray rolls back years to work with Ivan Lendl for third time”. The Guardian. 4 tháng 3 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2022.
  11. ^ “ATP Prize Money Leaders” (PDF). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2024. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2021.
  12. ^ Preston, Eleanor (1 tháng 7 năm 2008). "The quarter-final is a match I can win". The Guardian. Truy cập 1 tháng 7 năm 2008.
  13. ^ Wins SAP Open in San Jose, California: SAP Open (18th tháng 2 năm 2007)
  14. ^ Andy Murray lên ngôi giải Cincinnati Masters[liên kết hỏng], Báo Thanh Niên.
  15. ^ Bắc Kinh 2008: Andy Murray bị loại ở vòng 1[liên kết hỏng], Báo Thanh Niên.
  16. ^ “Tin bài chi tiết”. Tuổi Trẻ Online. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2013. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
  17. ^ “Andy Murray and Laura Robson beaten in Hopman Cup final”. BBC Sport. 9 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2010.
  18. ^ “Federer outguns impressive Murray”. BBC Sport. 2 tháng 10 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  19. ^ “Magic Murray claims maiden title”. BBC Sport. 20 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2010.
  20. ^ Newbery, Piers (19 tháng 2 năm 2007). “Murray fights back to keep title”. BBC Sport. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2010.
  21. ^ a b c d “Murray masters Madrid on his path to grander ambitions”. The Guardian. 20 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
  22. ^ “Superb Federer ends Murray dream”. BBC Sport. 8 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
  23. ^ Standley, James (10 tháng 1 năm 2009). “Murray vs Roddick clash”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2009.
  24. ^ Newbery, Piers (15 tháng 2 năm 2009). “Murray v Nadal as it happened”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2009.
  25. ^ Dirs, Ben (22 tháng 3 năm 2009). “BBC Sport | Tennis | Murray v Nadal as it happened”. BBC News. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2009.
  26. ^ Bevan, Chris (14 tháng 6 năm 2009). “Classy Murray wins Queen's title”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2009.
  27. ^ “Tennis – ATP World Tour – Montreal Sunday – Murray Overcomes Del Potro”. ATP World Tour. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2010.
  28. ^ Benammar, Emily (9 tháng 11 năm 2009). “Andy Murray admits beating Mikhail Youzhny at Valencia Masters was easier than expected”. The Daily Telegraph. London. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2009.
  29. ^ "One more equals four" australianopen.com. Retrieved 31 January 2010.
  30. ^ “Querrey beats Murray to win 4th crown”. ATP. 1 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2010.
  31. ^ “Murray beats rain and Federer to defend title”. ATP. 15 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2010.
  32. ^ “Murray Masters Federer To Claim Shanghai Title”. ATP Tour. 17 tháng 10 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2010.
  33. ^ Murray Reaches first Wimbledon Final
  34. ^ Murray Wins Olympic Gold
  35. ^ Murray Wins his maiden Grand slam
  36. ^ Novak Djokovic beats Andy Murray to win Shanghai Masters
  37. ^ Andy Murray loses to Novak Djokovic in Australian Open final
  38. ^ “Andy Murray saves five match points to win Shenzhen Open title”. BBC Sport. 28 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2014.
  39. ^ “Andy Murray beats David Ferrer to win the Vienna Open”. BBC Sport. 19 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2014.
  40. ^ “Andy Murray beaten by Novak Djokovic in Australian Open final”. The Daily Telegraph. 1 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2015.
  41. ^ “Murrays Win First Team Title in Valencia”. ATP Tour. 7 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2010.

Liên kết ngoài


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/> tương ứng