YếmYếm (Chữ Nho: 肚兜/兜子 đỗ đâu/đâu tử, Chữ Nôm: 裺 hoặc 𧞣) là mảnh vuông vải che ngực của phụ nữ và thiếu nhi ở Trung Quốc và Việt Nam. Lịch sửViệt NamÁo cổ khoét tròn là yếm cổ xây, cổ nhọn như chữ V là yếm cổ xe, đáy chữ V khoét sâu hơn là yếm cổ nhạn. Trang trọng, nam giới cũng mặc yếm là nội y, trung y là áo tràng vạt, hạ y là mã khố (馬袴) (quần dài đáy xẻ trước sau). Nếu mặc vạt áo dài che đi hạ bộ hoặc có giáp thì hạ y là độc tị côn (犢鼻褌) (quần ngắn xẻ 2 bên). Nếu là quân binh, xã viên thì hạ y là đậu khố (豆袴) (quần ngắn). Nếu là nông dân (đội xuân lôi tiểu lạp), ngư dân (đội ngư lạp), quân luyện tập binh khí (đội đinh tự cân huyền sắc), mã vệ quân, nghi trượng quân (đều đội trạo lạp đính hắc mao) có thể mặc khố (袴) (dải nhuyễn che hạ bộ như con lươn). Nữ giới mặc nội y là yếm, trung y là 1 đến 3 sắc áo bù long hoặc áo tràng vạt, hạ y là thường ngoại vi quần (váy đụp) trong. Nếu là trẻ nữ bần hàn, thị nữ thì mặc tiểu y (小衣) (váy ngắn). Nếu là nông dân, ngư dân thì mặc côn (裩) (váy được xắn cố định). Nếu là cô đầu, dật sinh (佾生), vũ nữ, kỹ sinh diễn trò Xuân phả thì mặc hoành lặc khố (横勒袴) (dải gấm thêu 7 sắc hoa văn chia nhiều thùy lưu quanh nhuyễn). Trung QuốcTheo sử ký, yếm phát sinh từ thói quen ăn mặc của Dương quý phi nhà Đường[1], được gọi là Đỗ-đâu (肚兜), Đâu-đỗ (兜肚), Đâu-đâu (兜兜), v.v. Tuy nhiên, các chứng tích khảo cổ đã xác thực rằng áo che ngực của phụ nữ Trung Hoa đã có từ thời Tần, khi đó gọi là Tiết-y (褻衣). Vào thời Minh, các bé gái bắt đầu mặc yếm từ khi lên ba tuổi. Quanh áo thường buộc những túi nhỏ đựng gừng, xạ hương và các loại thảo mộc khác để điều hòa khí trong cơ thể. Thời này, yếm luôn được nhuộm đỏ với quan niệm xua đuổi tà ma của tín ngưỡng dân gian Trung Hoa. Nhưng sang thời Thanh, yếm lại thêm tác dụng ép cho phẳng ngực, vì thế luôn được may bó chặt lấy thân. Mãi đến năm 1927, mới có luật cấm lối cắt may đó sau nhiều thập kỷ tranh cãi gay gắt, một sắc lệnh được ban hành trước tiên tại Quảng Đông và từ đó nhân rộng ra toàn Hoa lục. Hiện nay, áo cổ yếm trở thành đối tượng ưu chuộng khai thác của ngành thời trang phương Tây, gồm các nhãn hiệu trứ danh như Versace[2], Versus[3], Miu Miu, v.v.[4] Xu hướng này thậm chí đã dội ngược vào xã hội Trung Hoa: nhiều nhà thiết kế thời trang và cả nữ minh tinh Chương Tử Di đã kết hợp áo yếm với các trang phục hiện đại.[5][6] Nhiều người Trung Quốc lão thành đã kịch liệt phủ nhận sự cách tân đó.[7][8] Nhật BảnỞ Nhật Bản, đặc biệt là trong thời kỳ Edo, trẻ em thường mặc yếm đào (腹掛け (haragake)) và đóng khố (ふんどし (fundoshi)), nhưng cả hai trang phục này rất hiếm khi được mặc hiện nay. Đặc trưngDo là phụ kiện nên yếm có nhiều hình dạng tùy vào người sử dụng và thợ may. Loại đơn giản nhất có dạng hình thang với đáy trên nhỏ, đính dây để choàng hoặc buộc sau cổ. Hai dây vải nhỏ ở đáy dưới để dài, vòng qua thắt nút ở sau eo. Những mẫu yếm cầu kì hơn có thể rộng hơn ở giữa, có đính dây vòng qua lườn rồi thắt dây. Như thế yếm cốt che kín từ ngực đến rốn, hở nách. Trẻ em khi mới sinh thường được mặc yếm đỏ để chúc phúc và tránh tà, khi đến tuổi trưởng thành thì chỉ nữ lưu còn dùng yếm. Ngoại trừ màu chính hoàng là đặc quyền của hoàng đế, các màu khác tùy theo. Nữ giới ưa dùng các màu trắng, mỡ gà, điều, bã trầu, hoa cà, nâu, cũng có các màu nõn chuối, cánh trả, gốm nhưng hiếm hơn. Cứ theo thi phẩm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (十戒孤魂國語文) của tác giả Lê Thánh Tông, các hoa nương thường chuộng mặc "yếm chéo cánh, cạnh thêu", có màu "lục cổ vẹt, đỏ tiết dê, xống dang chân thắt đáy". Độc đáo nhất, Tiện phục của Mệnh phụ có trâm bướm yếm đào thêu hoa văn kết hợp 3 sắc áo bổ long, vi quần và 2 sắc nhuyễn tạo nên bộ y phục đầy đủ ngũ hành,tạo vẻ kì lệ như hồ điệp tiên nữ. Đây có thể là bản y để tạo nên áo tứ thân. Người phong lưu dùng yếm dệt từ lụa hoặc thổ cẩm, dân hạ lưu chọn các loại vải kém bền hơn như bông, tơ chuối. Mặt yếm có thể thêu hoa, bướm hoặc uyên ương, trường hợp đặc biệt hơn là con dơi (phúc), quả ổi (lộc), quả đào (thọ). Ở Trung Quốc thời Minh - Thanh, do các tiêu chuẩn đạo đức ngày càng bảo thủ nên yếm được tận dụng để ép phẳng ngực[cần dẫn nguồn]; các nhà quyền quý thường may bằng chất liệu vải dày hoặc đồng, bạc, vàng, đôi khi còn đính thêm cườm hoặc kim tuyến. Ngoài ra, phần nách áo cũng được nới rộng để che kín hơn trước. Đến nay chỉ còn thứ yếm của người An Nam còn giữ được những nét nguyên thủy. Hiện diện trong nghệ thuậtVở chèo Tống Trân Cúc HoaTrong vở chèo Tống Trân Cúc Hoa do đạo diễn Doãn Hoàng Giang dàn dựng, Cúc Hoa đã bán tấm yếm đào của mình lấy tiền cho Tống Trân đăng kinh ứng thí. Trích lời Cúc Hoa trong vở chèo[9]:
Tấm lụa đào của Cúc Hoa vốn làm từ lụa tốt, là món đồ dùng quý giá thiết thân của nàng. Kể từ khi theo Tống Trân, trải muôn ngàn khổ cực, chỉ có dải yếm đào từ thời con gái được nàng gìn giữ, nay cũng phải bán, cũng là tấm lòng của kẻ thuyền quyên đối với chồng. Theo kịch bản, Cúc Hoa bán được bốn quan tiền. Tùy vào thời điểm, món tiền này có thể tương đương với vài đấu gạo. Như thế cũng không phải là rẻ mạt quá. Tuy nhiên ta cũng nên hiểu, chuyện kim tiền ở đây không chỉ là định lượng. Tấm yếm của Cúc Hoa mang ý nghĩa biểu tượng là như thế. Tuy nhiên khi biết chuyện này, Tống Trân buộc vợ phải trả lại món tiền: "Em hãy đem bốn quan tiền trả cô hàng xóm, rồi lấy yếm mặc vào, để anh vui lòng chốc lát lên đường". Thập giới cô hồn quốc ngữ văn[cần dẫn nguồn]
Ca dao
Xem thêmWikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Yếm. Tham khảo
|
Portal di Ensiklopedia Dunia