Sân bóng chày

Fenway Park, sân nhà của Boston Red Sox và là sân bóng chày lâu đời nhất trong Major League Baseball
Globe Life Field, sân nhà của Texas Rangers và là sân bóng chày mới nhất trong Major League Baseball

Sân bóng chày (baseball park hay ballpark - tiếng Anh) là một loại địa điểm thể thao nơi diễn ra các trận đấu bóng chày . Phần sân thi đấu được chia thành hai phần gồm sân gọi là sân trong (infield) và sân ngoài (outfield). Sân trong là khu vực đặt vị trí của các chốt hay lũy (base) và ụ ném (mound) có kích thước cố định theo luật, và sân ngoài là nơi có kích thước có thể thay đổi rất nhiều theo từng sân bóng, hoặc cố định theo luật.[1][2] Một sân vận động lớn hơn cũng có thể được gọi là sân vận động bóng chày vì nó có những đặc điểm giống với các loại sân vận động khác.

Đặc điểm chung

Phần sân thi đấu

Sơ đồ sân bóng chày

Mặt sân bóng chày có hình dạng mặt bên của viên kim cương, bao gồm phần sân phía trong biên (fair territory)hình quạt một phần tư đường tròn, và vùng sân ngoài biên (foul territory) nơi các cầu thủ vẫn có thể di chuyển và xử lí bóng nếu bóng nằm ở khu vực này.

Sân trong (infield) là một hình quạt một phần tư đường tròn, trải đất và cỏ hoặc cỏ nhân tạo (hoặc toàn bộ là đất), bao gồm ba chốt (base), đĩa nhà hay chốt nhà (home plate) và ụ ném bóng (pitching mound hay mound). Khoảng cách giữa các chốt cố định tạo thành một hình vuông trải cỏ, ngoại trừ u ném bóng bằng đất ở giữa (hoặc cả đường chạy giữa các chốt). Một số sân, chẳng hạn như Sân vận động KoshienTỉnh Hyōgo, Nhật Bản, có sân trong hoàn toàn bằng đất.

Hai phần sân trong và ngoài biên được chia bởi hai vạch kẻ biên (foul line) vuông góc, thường được phân biệt bằng cách gọi chúng là biên trái/biên phải hay biên chốt ba/biên chốt một. Nếu bóng do người đánh bóng đập trả rơi xuống hoặc lăn ra phần sân ngoài hai biên này trước khi lăn qua chốt một hoặc chốt ba, thì quả bóng đó bị coi là "ngoài biên" (foul) (không được tính là tình huống bóng sống, và bị tính là "bóng tốt" (strike) thứ nhất và hai cho người đánh). Nếu bóng rơi vào giữa hai đường biên này thì được coi là "bóng sống". Ở cuối rào các đường biên trên có hai "cột biên" (foul pole), giúp trọng tài xác định bóng đã ngoài biên khi ra khỏi sân hay chưa. Những "cột biên" này thực ra nằm trong phạm vi trong sân, vì vậy nếu bóng đập vào chúng thì sẽ được tính là một cú home run (cầu thủ chạy hết bốn chốt để ghi điểm, cũng như đẩy đồng đội trên các chốt trước về ghi điểm cùng).

Ở hai bên chốt nhà là hai ô đứng dành cho cầu thủ lên đánh bóng (batter's box, bên trái và bên phải). Đây là nơi người đánh bóng (batter) đứng để đập trả cú bóng của tay ném đối phương. Phía sau nhà là khu vực bắt bóng, nơi tay bắt bóng (catcher) thi đấu và trọng tài điều hành trận đấu.

Bên cạnh các chốt một và ba là hai khu vực cho huấn luyện viên (coaches' box), nơi huấn luyện viên phụ trách các chốt chỉ đạo các cầu thủ tấn công đã lên chốt, thường bằng cử chỉ hoặc khẩu lệnh. Khi chạy từ chốt hai lên chốt ba, cầu thủ chạy phải quay lưng, không quan sát diễn biến bóng ở phần sân ngoài (outfield), để ra quyết định chạy tiếp về ghi điểm, xoạc người hay dừng lại, và phải dựa vào chỉ đạo của huấn luyện viên chốt ba.

Xa hơn về phía ngoài hai biên là khu vực băng ghế (dug-out), nơi cả đội và ban huấn luyện ngồi khi họ không ở trên sân. Sở dĩ mang tên dug-out là vì ở cấp độ chuyên nghiệp, khu băng ghế này nằm thấp hơn mặt sân để không chặn tầm nhìn từ những vị trí ngồi gần mặt sân của khán giả. Ở sân dành cho người nghiệp dư, khu băng ghế có thể là những Lán bằng gỗ hoặc CMU nổi trên mặt đất có chỗ ngồi bên trong, hoặc chỉ đơn giản là những chiếc ghế dài sau hàng rào mắt cáo.

Phía sau phần sân trong và giữa hai đường biên là phần sân cỏ rộng lớn hay còn gọi là sân ngoài (outfield). Cuối phần sân được bao quanh bởi hàng rào có độ cao khác nhau. Hàng rào quan khư vực sân trong nằm ở ngoài biên và một quả bóng được đánh qua phần rào đó là bóng ngoài biên chứ không được coi là cú home run; do đó, chúng thường thấp hơn hàng rào sân ngoài để khán giả có thể quan sát tốt hơn. Đôi khi, hàng rào ngoài sân được xây cao hơn ở một số khu vực nhất định để bù lại khoảng cách từ rào về khu vực đánh bóng ngắn bất thường.

Ở nhiều sân, sân được bao quanh bởi một khu vực lề khoảng 10 foot (3,0 m) làm bằng đất hoặc bề mặt cao su tương tự đường chạy điền kinh gọi là lề rào hay "warning track". Trong quá trình cải tạo Sân vận động Yankee cũ vào năm 1937, một đường lề chạy dọc theo chu vi của sân đã được công nhận như là lề sát rào đầu tiên.[3] MLB chính thức yêu cầu bắt buộc việc sắp đặt lề rào vào năm 1949.[4]

Phía sau phần giữa hàng rào sân ngoài ở nhiều sân bóng chày có một khu vực được gọi là phông đánh bóng (batter's eye). Phông đánh bóng có thể là một khu vực sẫm màu và không có ghế ngồi, như một đồi cỏ, hàng cây, hàng ghế trống hoặc chỉ là một tấm phông sẫm màu bản rộng dựng sau hàng rào, để đảm bảo người đánh bóng dễ nhìn thấy quả bóng màu trắng trong môi trường chiếu sáng.

Hầu hết các sân bóng chày của các giải đấu lớn đều có hướng sân (gióng từ sân nhà qua chốt hai qua sân giữa) của sân chạy về hướng bắc , hướng đông hoặc hướng đông-bắc. Luật 1.04 của Major League Baseball quy định rằng hướng sân lí tưởng (nhưng không bắt buộc) là phải chạy theo hướng đông-đông bắc (khoảng 22 độ về phía bắc của phía đông). Điều này nhằm mục đích tránh ánh nắng mặt trời chiếu vào mắt người đánh. Trên thực tế, hướng các sân MLB dao động trong khoảng 90 độ từ trục đông-đông bắc theo cả hai hướng, nhưng không có sân nào hướng về phía tây, ngoại trừ một số sân chỉ chếch hướng tây một chút so với hướng bắc.[5]

Chỗ ngồi

Ngày nay, tại các sân ở MLB thường một khán đài nhiều tầng, bao quanh khu vực sân trong. Khoảng cách chỗ ngồi này kéo dài xuống đường biên cuối sân hoặc xung quanh các cột phạm lỗi khác nhau tùy theo từng sân. Ở các sân của các đội hạng dưới, khán đài nhỏ hơn đáng kể, tương ứng với quy mô đám đông dự kiến so với cấp MLB.

Biến thể kích thước

Khác với các "môn thể thao cầu môn" như bóng đábóng rổ, với kích thước sân đấu cố định, sân trong là phần duy nhất được bố trí cố định trên sân bóng chày. Giống sân cricket ở Anh, sân thi đấu bóng chày có sự đa dạng đáng kể về hình dạng và kích thước của các phần sân còn lại.

Hình ảnh Sân vận động Yankee cũ cho thấy hàng rào bên trái của sân có tiếng là xa hơn bên phải

Các giải đấu bóng chày có thể chỉ định khoảng cách tối thiểu từ chốt nhà đến hàng rào ngoài sân. Nhìn chung, trình độ kỹ năng càng cao thì kích thước tối thiểu phải càng xa để tránh tình trạng đánh home run quá nhiều. Tại Major League Baseball, một quy định đã được thông qua vào năm 1958 [6] bắt buộc bất kỳ sân mới nào được xây dựng sau thời điểm đó phải có khoảng cách tối thiểu là 325 foot (99 m) từ chốt nhà đến hàng rào ở cánh trái và cánh phải, và 400 foot (120 m) cho khoảng cách tới rào giữa. (Điều 1.04, Chú thích (a)). Quy định này được thông qua để tránh những tình huống như Los Angeles Coliseum, nơi có khu vực sân trái chỉ xa nhất là 251 ft (77 m).

Các sân bóng chày cũ hơn, chẳng hạn như Fenway Park, được phép giữ nguyên kích thước ban đầu. Ngoài ra, các sân mới đôi khi cũng nhận được sự cho phép đặc biệt để không phải tuân theo các quy định này. Ví dụ, Sân vận động Yankee thứ hai, được xây dựng vào năm 2009, được cho phép sao chép đúng kích thước của Sân vận động Yankee ban đầu .[7]

Nguồn gốc tên gọi

Cánh đồng Elysian

Các trận bóng chày ban đầu được chơi ở các bãi đất trống lớn hay trong các công viên công cộng. Nguồn gốc của bóng chày hiện đại gắn liền với sân Elysian Fields tại Hoboken, New Jersey,[8] một công viên công cộng lớn nơi các doanh nhân của Thành phố New York tụ tập thỉnh thoảng để chơi bóng chày và cricket một cách có tổ chức, từ khoảng giữa những năm 1840. Tên "Field" hoặc "Park" thường được gắn với tên của các sân bóng chày đầu tiên.

Với sự ra đời của bóng chày chuyên nghiệp, sân bóng đã trở thành một phần của khu phức hợp bao gồm khu vực chỗ ngồi cố định cho khán giả và một khu vực rào chắn để hạn chế khách hàng trả tiền ra vào, giống như ở khu hội chợ. Cái tên "Grounds" bắt đầu được gắn cho các sân bóng chày, bắt đầu với Union Grounds vào năm 1862. [ cần dẫn nguồn ] Các hậu tố "Field" và "Park" vẫn được sử dụng, nhưng nhiều sân bóng chày chuyên nghiệp bấy giờ được gọi là "Grounds". Sân vận động cuối cùng hậu tố này là Sân vận động Polo ở New York, đã bị phá hủy vào năm 1964.

Không gian

Thiết kế khu vực chỗ ngồi của sân vận động bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm sức chứa cần thiết, khả năng tiếp cận của khán giả và giao thông đường bộ. Những sân bóng chày đầu tiên như Elysian Fields cách xa trung tâm thành phố. Mỗi trận đấu là một sự kiện và người hâm mộ di chuyển bằng phương tiện công cộng để đến xem trận đấu.

Với sự phát triển của các giải đấu chuyên nghiệp và sự gia tăng về số lượng trận đấu, mỗi một trận bóng trở nên ít quan trọng hơn và sự tiện lợi của người hâm mộ được đặt lên hàng đầu.[1] Nhiều sân bóng chày chuyên nghiệp được xây dựng gần trung tâm thành phố hoặc ở các khu dân cư lao động, thường có thiết kế dựa trên mức kinh tế dự kiến của người hâm mộ. Do đó, các sân bóng chày cổ điển thường có ít không gian cho ô tô vì người ta cho rằng hầu hết người hâm mộ sẽ đi phương tiện công cộng đến các trận đấu, và tình trạng này vẫn xảy ra ở Fenway Park ở Boston và Wrigley Field ở Chicago. Một số sân đầu tiên, như Eastern Park ở Brooklyn, đã bị bỏ hoang vì các tuyến xe điện có chặng đi quá ngắn và đội bóng không thi đấu đủ tốt để mọi người có thể chịu đựng được sự bất tiện này.

Khi người xem trở nên dư dả hơn, đặc biệt là khi chuyển tới vùng ngoại ô và sở hữu ô tô, việc thiếu chỗ đậu xe trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Một số sân bóng chày đã khắc phục vấn đề này bằng cách xây dựng các bãi đỗ xe ở gần đó hoặc xây dựng sân bóng chày mới có bãi đỗ xe rộng rãi. Những trường hợp xây dựng sân bóng chày ở vùng ngoại ô thường có bãi đậu xe rộng rãi. Sân vận động/sân bóng chày mang tư duy thiết kế này thường trở thành một "ốc đảo" trong một "đại dương" ô tô ngoài bãi đỗ.

Xu hướng "hoài cổ" hiện đại hướng đến mọi đối tượng trên: địa điểm trong thành thị, có cả không gian đậu xe đầy đủ và phương tiện giao thông công cộng cũng như xe buýt liên tỉnh.

Các loại sân bóng chày

Sân bóng bằng gỗ

Sân vận động Huntington Avenue, thời điểm diễn ra World Series năm 1903

Những địa điểm thi đấu bóng chày chuyên nghiệp đầu tiên là những sân bóng chày lớn bằng gỗ với khán đài bằng gỗ được đặt trên bục gỗ. Mặc dù vậy, chúng vẫn có các trụ sắt giúp cấu trúc công trình vững trãi hơn. Một số có một tầng khán đài, phía trên có mái bằng hoặc trong một số trường hợp, có một tầng nhỏ phía trên. Khu vực quanh sân ngoài được bao quanh bởi những bức tường hay hàng rào cao phủ đầy quảng cáo, khá giống với các sân giải hạng dưới ngày nay. Những bảng quảng cáo đôi khi được đặt ở phía sau những hạng ghế lộ thiên hay "ghế bạc nắng" (bleachers). Gỗ tuy có độ bền kém nhưng lại là vật liệu tương đối rẻ tiền.

Tuy nhiên, việc sử dụng gỗ làm vật liệu chính lại gây ra một vấn đề lớn, đặc biệt là khi môn bóng chày tiếp tục phát triển. Theo thời gian, những khán đài bằng gỗ này sẽ khô đi và dễ cháy. Nhiều sân bóng thời kì này đã bốc cháy, trong đó một số bị san phẳng hoàn toàn. Vấn đề này, cùng với sự phổ biến của bóng chày và yêu cầu về tuổi thọ lâu dài của các sân đấu là những yếu tố chính thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang vật liệu tiêu chuẩn mới cho sân bóng chày: thép và bê tông. [ cần dẫn nguồn ] Một số công viên gỗ nổi tiếng, như Polo Grounds III ở New York và National League Park ở Philadelphia, đã bị cháy và được xây dựng lại bằng vật liệu chống cháy trên (Polo Grounds "4.0" và Baker Bowl). Những công trình khác chỉ đơn giản là bị bỏ hoang trong khi các sân mới được xây dựng ở nơi khác. Những sân bóng chống cháy mới này thường tồn tại trong nhiều thập kỷ và, khi nhìn lại, được ví von là "hộp ngọc" đô thị (jewel box) - và cũng là tên của xu hướng xây dựng sân tiếp theo. Không còn sân bóng chày chuyên nghiệp bằng gỗ nào còn tồn tại, với sân cuối cùng, Oriole Park "5.0", đã bị cháy rụi vào năm 1944.

Sân bóng chày nội thành cổ điển

Fenway Park là sân vận động lâu đời nhất còn hoạt động của Major League Baseball . Tường rào "Green Monster" nổi tiếng là hàng rào bên trái.

Những sân bóng chày đầu tiên được xây dựng hoặc xây dựng lại bằng bê tông cốt thép, gạchthép hiện được gọi là sân bóng chày hộp ngọc hoặc sân bóng nội thành cổ điển . Khán đài hai tầng cũng trở nên phổ biến hơn nhiều trong thời đại này. Sân vận động Baker Bowl ở Philadelphia, được khánh thành vào năm 1895, là sân vận động đầu tiên sử dụng thép và gạch làm vật liệu xây dựng chính và bao gồm khu vực khán đài tầng trên nhô ra phía trên khu vực tầng dưới. Mặc dù không sử dụng bê tông cốt thép trong quá trình xây dựng, Baker Bowl vẫn được coi là sân bóng đầu tiên trong một loạt các sân được coi là những "hộp ngọc" làm điểm nhấn cho không gian đô thị. Sân bóng đầu tiên sử dụng bê tông cốt thép là Shibe Park, khánh thành năm 1909, cũng tại Philadelphia.

Các tầng khán đài trên thường được nâng đỡ bằng các trụ thép, cản trở tầm nhìn từ một số chỗ ngồi ở tầng dưới. Tuy nhiên, việc sử dụng các giá đỡ trên giúp các tầng trên có thể nằm rất gần với mặt sân thi đấu. Thiết kế hai tầng trở thành tiêu chuẩn trong nhiều thập kỷ, cho đến khi New York Yankees xây dựng Sân vận động Yankee . Để có thể đón tiếp lượng khán giả đông đảo đến xem Babe Ruth, Sân vận động Yankee được xây dựng với ba tầng khán đài, trở thành tiêu chuẩn mới cho đến khi một số sân mới xây dựng quay lại với thiết kế hai tầng khán, như PNC Park vào năm 2001.

Hầu hết các "sân bóng hộp ngọc" thường được thiết kế để thích ứng với những hạn chế của mặt bằng hay các khu phố xung quang, thường dẫn đến kích thước sân ngoài thiếu đối xứng đáng kể, hay tường sân ngoài lớn để bù trừ những khoảng sân ngắn và ngăn chặn những cú home run quá dễ dàng. Những ví dụ điển hình bao gồm League Park ở Cleveland, nơi có bức tường cao ở cánh phải cao 40 foot (12 m), và còn tồn tại là Green Monster, cao 37 foot (11 m) ở bên ngoài trái sân Fenway Park ở Boston. Những trường hợp ngoại lệ đáng chú ý bao gồm Shibe Park và Comiskey Park, được xây dựng trên những khối nhà hình chữ nhật đủ lớn để có thể bố trí các sân đối xứng hai bên trái phải.

Sân vận động đa chức năng

Ảnh chụp trên không của Sân vận động Three Rivers, k. 2000

Từ những năm 1960 cho đến khi làn sóng thiết kế sân hoài cổ xuất hiện vào năm 1992, các đội bóng chày khắp nơi đã xây dựng nhiều sân bóng đa năng . Thường bị dè bỉu là "bánh vòng bê tông", "sân dập khuôn" hay "gạt tàn khổng lồ", chúng thường là những cấu trúc cao, hình tròn hoặc hình vuông được làm hoàn toàn bằng bê tông cốt thép trần. Các sân được xây dựng để tổ chức bóng chày, nhưng cũng có thể tổ chức các môn thể thao khác như bóng bầu dụcbóng đá. Một trong những sân bóng chày đầu tiên kết hợp kiểu thiết kế này là Sân vận động Cleveland (xây dựng năm 1932), có khán đài hình bầu dục phù hợp hơn với các môn thể thao tập trung vào cầu môn như bóng đábóng bầu dục Mỹ. Một sân bóng loại này được xây dựng để phù hợp với mọi môn thể thao, do nhiều đội hoặc chính quyền thành phố đồng sở hữu, thoạt có vẻ có lợi cho tất cả mọi người, đặc biệt là với chi phí duy trì một sân vận động ít hơn so với hai sân vận động chuyên biệt. Một số sân ban đầu được xây dựng cho một môn thể thao cũng đã được cải tạo để có thể tổ chức nhiều môn thể thao.

Sân bóng chày trong nhà

Sân vận động Tropicana Field, hiện là sân bóng chày MLB trong nhà duy nhất còn hoạt động

Sân bóng chày hiện đại

Những hàng ghế sặc sỡ tại Sân vận động Dodger

Sân bóng chày có mái thu vào

Rogers Centre là sân vận động đầu tiên có mái có thể thu vào, ở trạng thái mái mở và đóng trong hình.

Sân bóng chày tân cổ điển

Camden Yards bắt đầu cơn sốt kiến trúc hoài cổ với một sân vận động nhỏ gọn, xây bằng gạch đỏ và phủ màu xanh lá cây.

Sân bóng chày cổ điển-hiện đại

Progressive Field là công viên cổ điển đầu tiên có mặt ngoài hiện đại.

Sân bóng chày thiết kế đương đại

Marlins Park, hiện được gọi là LoanDepot Park, có thiết kế hiện đại, lấy cảm hứng từ Miami với kính điêu khắc và hình ảnh cong mô tả "nước hòa vào đất liền", gạch Miami-Deco và tông màu tươi sáng.

Sân bóng chày tạm thời và hoán cải

Được xây dựng ban đầu cho mục đích bóng bầu dục của trường đại học và Thế vận hội, Sân vận động tưởng niệm Los Angeles hình bầu dục đã trở thành sân nhà tạm thời của đội Dodgers vào năm 1958.

Tham khảo

  1. ^ a b "Complete Guide to Baseball Field Layout". 99baseballs.com. ngày 3 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “:0” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  2. ^ "Baseball Field Layout and Construction". www.baseball-almanac.com. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  3. ^ Weintraub, Robert (ngày 4 tháng 4 năm 2011). The House That Ruth Built: A New Stadium, the First Yankees Championship, and the Redemption of 1923 (bằng tiếng Anh). Little, Brown. tr. 210. ISBN 978-0-316-17517-3. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  4. ^ Glanville, Doug (ngày 29 tháng 8 năm 2012). "The warning track is useless". ESPN.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2022.
  5. ^ David Kagan (ngày 30 tháng 7 năm 2014). "Lost in the Sun: The Physics of Ballpark Orientation". The Hardball Times. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2021.
  6. ^ "Official Rules". Major League Baseball. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2015.
  7. ^ "Yankee Stadium Comparison". New York Yankees. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2015.
  8. ^ "Modern Baseball Began in 1845". The New York Times (bằng tiếng Anh). ngày 15 tháng 7 năm 2001. ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2023.

 

Prefix: a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9

Portal di Ensiklopedia Dunia