André-Georges Haudricourt phân loại các ngôn ngữ Thái thành hai nhánh với Tai Trung tâm và Tai Tây Nam là hai tiểu nhánh của cùng một nhánh, trong khi Tai Bắc là một nhánh độc lập.
Tai Nguyên Thủy │
│ Tai Bắc
│ │
│ Tai Trung tâm
│ Tai Tây Nam
Lý Phương Quế (1977)
Lý Phương Quế (Li Fang-Kuei, 李方桂) chia các ngôn ngữ Tai thành ba nhánh: Tai Bắc, Tai Trung tâm và Tai Tây Nam. Hệ thống phân loại này được xem là mô hình chuẩn trong lĩnh vực ngôn ngữ học so sánh các ngôn ngữ Tai.
Tai Nguyên Thủy │
│ Tai Bắc │ Vũ Minh, Ch'ien-chiang, Ts'e-heng, Ling-yun, Hsi-lin, Tien-chow, Po ai
│ Tai Trung tâm │ Thổ (Tày), Nùng, Long Châu, T'ien-pao, Yung-ch'un
│ Tai Tây Nam │ Thái Lan, Lào, Shan, Lự, Ahom
Gedney (1989)
William J. Gedney (1989) xem Tai Trung tâm và Tai Tây Nam là hai tiểu nhánh của cùng một nhánh, trong khi Tai Bắc là một nhánh độc lập.
Tai Nguyên Thủy │
│ Tai Bắc
│ │
│ Tai Trung tâm
│ Tai Tây Nam
Luo (2001)
Luo Yongxian (2001) nhận ra đặc điểm khác biệt của người Thái Đức Hoành (Thái Na) và cho rằng ngôn ngữ này nên được xếp vào một nhánh riêng Tai Tây Bắc.[2] Luo cho rằng nhánh Tai Tây Bắc có nhiều đặc điểm của Tai Trung tâm và Tai Bắc mà không thấy ở Tai Tây Nam.
Tai Nguyên Thủy │
│ Tai Tây Bắc
│ Tai Tây Nam
│ Tai Trung tâm
│ Tai Bắc
Pittayawat Pittayaporn (2009)
Trong luận văn tiến sĩ 2009, Pittayawat Pittayaporn phân loại các ngôn ngữ Tai như sau:[3]
Tai Nguyên Thủy │
│ A │ │ │
│ B │ Tráng Ninh Minh
│ C │ Tráng Sùng Tả Tráng Thượng Tư Cao Lan
│ D │ │ │
│ E │ │
│ F │ Tráng Long Châu Tráng Lôi Bình
│ I │ Tráng Khâm Châu
│ J │ │
│ G │ │ │ │ │ │
│ H │ Tráng Long Minh Tráng Đại Tân
│ M │ Tráng Vũ Minh Tráng Ung Nam Tráng Long An Tráng Phù Tuy
│ N │ Seak, Po-ai, Giáy, Tráng Lăng Nhạc, Dong An, Khâu Bắc, Bố Y và các phương ngữ Tráng Bắc khác.
│ K │ │ │ │ │ │
│ L │ Tráng Đức Bảo Tráng Tĩnh Tây Nùng Phía Tây (Nùng Inh) Nùng Nghiễn Sơn (Vân Nam) Nùng Quảng Nam (Vân Nam)
│ O │ │ │ │ │
│ P │ Tày Bảo Yên Tày Cao Bằng Tráng Văn Mã (Vân Nam)
│ Q │ Thái Lan, Lào, Shan, Thái Đen, Thái Trắng, Làn Nà, Phu Thai, Dehong, Tai Aiton, Tai Phake, Shan Phía Nam, Lự, Nyo, Yoy, Kaloeng, Phuan..v..v..
│ R │ Sapa
Phục nguyên
Tai Nguyên Thủy được phục nguyên bởi Lý Phương Quế năm 1977 và Pittayawat Pittayaporn năm 2009.[4]
Tai Tây Nam Nguyên Thủy được phục nguyên bởi Lý Phương Quế năm 1977 và bởi Nanna L. Jonsson năm 1991.[5]
Liệt kê ngôn ngữ
Tiếng Nam Thái (Pak Thái) thường được coi là khác biệt nhất; nó dường như giữ lại những phản ánh tiêu chuẩn về sự phát triển âm đầu đã bị che khuất trong các ngôn ngữ khác (Trung Tâm-Đông). Ngôn ngữ được xây dựng lại được gọi là Thái nguyên thủy, là tổ tiên của tất cả các ngôn ngữ Tai.
Các ngôn ngữ thuộc Nhóm ngôn ngữ Tai được liệt kê dưới đây dựa trên SIL International:
Có tác giả cho là tiếng Saek (skb) thuộc nhóm Bắc bộ của Nhóm ngôn ngữ Thái. Cũng có tác giả coi tiếng Ông Bối (Lâm Cao) thuộc về Nhóm ngôn ngữ Thái.
Tham khảo
^ abHammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin, eds. (2017). "Daic". Glottolog 3.0. Jena, Germany: Max Planck Institute for the Science of Human History. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Glottolog” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác