Tàu khu trục lớp Matsu (松型駆逐艦,Matsu-gata kuchikukan?) và Phân lớp Tachibana (橘型駆逐艦,Tachibana-gata kuchikukan?) là một lớp tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chúng còn được gọi là Khu trục mẫu D (丁型駆逐艦,Tei-gata kuchikukan?)
Nguồn gốc thiết kế
Lớp Matsu được xây dựng vào cuối Thế chiến thứ hai, và thiết kế nhằm làm phương pháp tiết kiệm chi phí hơn để đáp ứng với hiện trạng thay đổi của chiến tranh hàng hải vào thời điểm đó. Những chiếc tàu này nhẹ hơn và nhỏ hơn các tàu khu trục Nhật Bản trước đó, với vũ khí khác nhau như pháo chuyên phòng không thay vì đa chức năng với thêm vũ khí chống tàu ngầm, và radar. Vì các cuộc giao tranh bề mặt được cho là ít có khả năng sảy ra ở giai đoạn này của cuộc chiến, vũ khí sử dụng trên bề mặt như ống phóng ngư lôi bị giảm.
Như trong các hải quân khác trong chiến tranh, Hải quân Nhật đã đơn giản hóa đáng kể thiết kế để tăng tốc độ xây dựng và sử dụng máy móc của tàu phóng lôi lớp Ōtori, vì tốc độ cao là không cần thiết cho các hoạt động hộ tống hải đoàn tàu vận tải. Tuy nhiên, việc sản xuất hàng loạt đã không đạt được.
Thiết kế lớp Matsu sau đó được đơn giản hóa hơn nữa, dẫn đến các tàu khu trục lớp Tachibana (橘型駆逐艦,Tachibana-gata kuchikukan?) hay khu trục mẫu D cải tiến (改丁型駆逐艦,Kai Tei-gata kuchikukan?). Lớp Tachibana thông qua thiết kế dùng mô-đun đầu tiên trong một tàu khu trục Nhật Bản. Các tàu lớp Matsu được đóng muộn được hoàn thành như một chiếc Tachibana. Các tàu có chiều dài 100 mét tổng thể, với sườn ngang 9,35 mét,độ mớn nước 3,37 mét[5] và có trọng lượng rẽ nước là 1.309 tấn (1.288 tấn Anh) ở tải trọng tiêu chuẩn và 1.554 tấn (1.529 tấn Anh) ở tải trọng sâu.[6]
Các tàu có hai tua-bin hơi nước nhiều số Kampon, mỗi tua bin quay một trục cánh quạt, sử dụng hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi ống nước Kampon. Các tua-bin được cho phép lên tới tổng cộng 19.000 mã lực trục (14.000 kW) với tốc độ thiết kế là 28 hải lý/h(52 km/h). Lớp Tachibana có một phạm vi hoạt động khoảng 4680 hải lý (8670 km) ở tốc độ 16 hải lý/h (30 km/h).[7]
Giao cho Liên Xô vào ngày 29 tháng 7 năm 1947 tại Nakhodka, đổi tên thành Vozrozhdionny (Возрождённый), chuyển đổi thành tàu mục tiêu TSL-25 (1949) và tàu kho PM-65 (1957), tháo dỡ năm 1969.
Đầu hàng tại Kure. Bàn giao cho Trung Hoa Dân Quốc ngày 6 tháng 7 năm 1947 tại tại Thượng Hải với tên gọi ROCN Hui Yang. Xóa khỏi đăng bạ hải quân Trung Hoa Dân quốc vào ngày 11 tháng 11 năm 1954 và bị tháo dỡ.
Giao cho Liên Xô vào ngày tháng ngày 5 tháng 7 năm 1947 tại Nakhodka, đổi tên thành Volevoy, chuyển đổi thành tàu mục tiêu TSL-23 (1949) rồi thành lò sưởi nổi OT-61 (1958); Xóa khỏi đăng bạ vào ngày 1 tháng 8 năm 1959 và bị tháo dỡ.
Hư hỏng ngày 5 tháng 1 do không kích khi đang hợp tác với chiếc Momi, trở về Manila để sửa chữa và bị đánh chìm khi rời vịnh Manila ngày 7 tháng 1 năm 1945 bởi khu trục hải quân Mỹ.[9]
Đầu hàng tại Kure. Bàn giao cho Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 6 tháng 7 năm 1947 tại Thượng Hải, đặt tên là ROCN Heng Yang. Xóa khỏi đăng bạ hải quân Trung Hoa Dân quốc năm 1950, sau đó bị tháo dỡ năm 1962.
Đầu hàng tại Kure. Được sử dụng để hồi hương lính Nhật tại nước ngoài. Bàn giao cho Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 31tháng 7 năm 1947 tại Thượn Hải. Nó được đổi tên thành ROCN Hua Yang, bị xóa khỏi đăng bạ hải quân Trung Hoa Dân quốc vào ngày 11 tháng 11 năm 1954.
Giao cho Liên Xô vào ngày 29 tháng 7 năm 1947 tại Nakhodka, đổi tên Vetrenny và sau đó là Vyrazitel'ny (Выразительный), chuyển đổi thành tàu mục tiêu TSL-26 (1949), tháo dỡ năm 1958.
Bị đánh chìm ngày 28 tháng 7 năm 1945 tại Kure bởi máy bay Mỹ. Được trục vớt ngày 30 tháng 9 năm 1954, Chuyển giao cho JMSDF dưới tên JDS Wakaba vào ngày 31 tháng 5 năm 1956. Cải thể thành tàu thử nghiệm radar vào năm 1958 rồi gắn thêm sonar vào năm 1958. Xóa khỏi danh bạ vào ngày 31 tháng 3 năm 1971 và bị thóa dỡ vào khoảng năm 1972-1973.
Giao cho Liên Xô vào ngày 5 tháng 7 năm 1947 tại Nakhodka, đổi tên thành Vol'ny (Вольный), chuyển đổi thành tàu mục tiêu TSL-24 (1949), tháo dỡ năm 1960.
Đầu hàng tại Maizuru. Bàn giao cho Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 6 tháng 7 năm 1947 tại Thượng Hải, được gọi là ROCN Xin Yang. Bị xóa khỏi đăng bạ hải quân Trung Hoa Dân quốc vào năm 1961.
^Fitzsimons, Bernard, general editor. Illustrated Encyclopedia of 20th Century Weapons and Warfare (London: Phoebus, 1978), Volume 17, p.1853, "Matsu".
Chú thích: D - Chiếc duy nhất trong lớp • C - Kiểu tàu được cải biến • N - Xếp lớp tàu tuần dương hạng nhẹ theo Hiệp ước hải quân Washington cho đến năm 1939 • H - Chưa hoàn tất vào lúc chiến tranh kết thúc