Hạm đội Thái Bình Dương (tiếng Nga: Тихоокеанский флот,[1] Chuyển sang ký tự Latinh: Tikhookeanskiy flot, tên là Hạm đội Thái Bình Dương Banner đỏ, Краснознамённый Тихоокеанский флот trong thời Xô Viết) là một phần của Hải quân Nga đóng tại Thái Bình Dương, mà trước đây là đơn vị đảm bảo an ninh biển tại vùng Viễn Đông của Liên Xô. Trụ sở chính của hạm đội nằm ở Vladivostok. Căn cứ hạm đội quan trọng khác trong khu vực Viễn Đông Nga là Petropavlovsk-Kamchatskiy trong vịnh Avacha, trên bán đảo Kamchatka với một căn cứ tàu ngầm lớn ở Vilyuchinsk cũng tại bán đảo.
Trong thời kỳ Liên Xô, Hạm đội Thái Bình Dương cũng chịu trách nhiệm quản lý và chỉ đạo hoạt động của Hải quân Liên Xô tại Ấn Độ Dương. Phi đội và các tàu hải quân Xô Viết đóng quân tại một số quốc gia ở Ấn Độ Dương, như là tại Đảo Socotra.
Lịch sử
Thành lập ngày 21-5-1731, tiền thân là đội tàu quân sự Okhotsk (1731-1856) và Đội tàu quân sự Siberia (1856-1918).
Trang bị
Các tàu ngầm hoạt động chính của Hạm đội Thái Bình Dương
#
|
Loại
|
Tên
|
Lớp
|
Năm
|
K-44
|
SSBN
|
Ryazan
|
Delta III
|
1979
|
K-506
|
SSBN
|
Zelenograd
|
Delta III
|
1979
|
K-211
|
SSBN
|
Petropavlovsk-Kamchatskiy
|
Delta III
|
1980
|
K-223
|
SSBN
|
Podolsk
|
Delta III
|
1980
|
K-433
|
SSBN
|
Svyatoy Georgiy Pobedonosets (Chiến thắng Saint George)
|
Delta III
|
1981
|
K-150
|
SSGN
|
Tomsk
|
Oscar II
|
1991
|
K-456
|
SSGN
|
Vilyuchinsk
|
Oscar II
|
1991
|
K-186
|
SSGN
|
Omsk
|
Oscar II
|
1993
|
K-331
|
SSN
|
Magadan
|
Akula I
|
1990
|
K-419
|
SSN
|
Kuzbass
|
Akula I
|
1992
|
K-295
|
SSN
|
Samara
|
Tàu ngầm lớp Akula
|
1995
|
B-260
|
SSK
|
Chita
|
Kilo
|
1981
|
B-394
|
SSK
|
|
Kilo
|
1988
|
B-445
|
SSK
|
Svyatoy Nikolay Chudotvorets (Công nhân phi thường của St. Nicholas)
|
Kilo
|
1988
|
B-464
|
SSK
|
Ust'-Kamchatsk
|
Kilo
|
1990
|
B-494
|
SSK
|
Ust'-Bolsheretsk
|
Kilo
|
1990
|
B-187
|
SSK
|
|
Kilo
|
1991
|
B-190
|
SSK
|
Krasnokamensk
|
Kilo
|
1993
|
B-345
|
SSK
|
Mogocha
|
Kilo
|
1994
|
Lực lượng không quân
Tính đến năm 2007, lực lượng không quân của Hạm đội Thái Bình Dương bao gồm:[2][3]
Tổ chức
Lãnh đạo
Chỉ huy của Hạm đội Thái Bình Dương qua các thời kỳ:
Sau đó, vào tháng 1 năm 1947, hạm đội được chia tách thành hạm đội 5 và hạm đội 7:
Hạm đội 5:
|
Hạm đội 7:
- Ivan Ivanovich Baykov (từ tháng 1 năm 1947)
- Georgiy Nikitich Kholostyakov (tháng 11 năm 1951 - Tháng 5 năm 1953)
|
Vào tháng 4 năm 1953, Hạm đội đã một lần nữa được hợp nhất thành hạm đội Thái Bình Dương:
Đội tàu
- Đội tàu Hải quân (Vladivostok).
- Lực lượng Hải quân vùng ven biển:
- Lực lượng bờ biển kết hợp hạm đội:
- Đội tàu hải quân (Fokino).
- 36 tàu chiến.
- 44 tàu chiến thuộc Lữ đoàn săn ngầm.
- 100 tàu thuộc Lữ đoàn tàu chiến.
- 19 tàu thuộc Lữ đoàn tàu ngầm.
- 165 tàu thuộc Lữ đoàn tàu bề mặt.
- 34 tàu thuộc Lữ đoàn tàu cứu hộ.
- 31 tàu thuộc Lữ đoàn tàu hộ vệ.
- 72 tàu thuộc Lữ đoàn tàu xây dựng và sửa chữa.
- 515 tàu thuộc Lữ đoàn tàu tình báo.
- Hạm đội hải quân.
- Lực lượng Không quân thuộc Hải quân.
- Lực lượng quân đội Đông Bắc (NEGTF):
- Hải quân (Petropavlovsk-Kamchatskiy).
- Lực lượng kết hợp hạm đội Kamchatka.
- Sư đoàn phòng vệ biển và bờ biển.
- Lực lượng không quân của NEGTF:
- 865 máy bay chiến đấu Trung đoàn máy bay chiến đấu.
- 317 máy bay thuộc Trung đoàn tổng hợp.
- 175 máy bay chống tàu ngầm máy thuộc Phi đội trực thăng.
- 216 máy bay chiến đấu thuộc Trung đoàn máy bay chiến đấu.
- 1.532 máy bay chiến đấu thuộc Trung đoàn phòng không.
Tham khảo