Danh sách quân chủ Đế quốc SasanDưới đây là danh sách quân chủ của nhà Sasan, những người đã lật đổ sự cai trị của đế quốc tiền nhiệm Parthia tại trận Hormozdgan năm 224. Đế quốc thời kỳ đỉnh cao bao trùm toàn bộ Iran, vươn tới tận Thổ Nhĩ Kỳ và đảo Rhodes ở phía Tây và Pakistan ở phía Đông, cũng như bao gồm một phần lãnh thổ vùng Kavkaz, Yemen, Oman, Ai Cập, UAE, Syria, Jordan và vùng Trung Á. Vương triều Sassanids bắt đầu từ Ardashir I, một trong những quý tộc và vương phó Iran tại vùng Istakhr và kết thúc khi Yazdegerd III mất vào năm 651.[1] Tuy nhiên giữa các thời điểm khi Boran mất và khi Yazdegerd III lên ngôi (khoảng giữa các năm 631 và năm 632) rất khó xác định người cai trị do những người kế nhiệm trong khoảng thời gian này bị phế truất hoặc bị các kẻ tiếm vị khác thuộc nhà Sasan cạnh tranh ngôi vị. Danh xưngAdashir, người khai sinh là đế quốc Sasan, là người đầu tiên sử dụng danh xưng "Shahanshah của người Iran" (Tiếng Ba Tư trung đại: šāhān šāh ī ērān; Tiếng Parthia: šāhān šāh ī aryān). Người kế nhiệm Adashir, Shapur I, đã để lại những ghi chép danh xưng cho những người tiền nhiệm mình trên bức phù điêu tại Ka'ba-ye Zartosht. Trên bức phù điêu này thì Adashir gọi họ bằng những danh xưng khác nhau và nhìn chung có vẻ như mang quyền lực tăng dần, cụ thể là: Xwaday (tức lãnh chúa) cho Sasan, Shah (vua) cho Papag, Shahanshah (tức vua của các vị vua) của người Iran cho Adashir I, và Shahanshah của người Iran và các dân tộc phi Iran (Tiếng Ba Tư trung đại: šāhān šāh ī ērān ud anērān) cho bản thân ông[2]. Danh hiệu "Vua của các vị vua của người Iran và các dân tộc phi Iran" được thấy trên một đồng bạc của Shapur I, cho thấy rằng danh hiệu này được đưa ra sau chiến thắng của ông trước người La Mã và theo sau đó là việc sáp nhập các vùng đất không phải của Iran vào vương quốc Sasan. Danh hiệu này sau đó được sử dụng trên đồng xu của tất cả các vị vua Sasan sau Shapur I.[3] Thời kỳ trị vì của Yazdegerd I (399 – 420) đánh dấu một bước chuyển quan trọng quan điểm chính trị của vương triều Sasan khi chuyển trọng tâm chính trị nhiều hơn về phía Đông thay vì thiên về phía Tây như trước đó[4] do xung đột ở với các bộ tộc ở khu vực phía Đông Iran ngày nay[4]. Xung đột với người Hung Iran gợi nhớ các cuộc xung đột mang tính chất truyền thuyết giữa người Kayani và các bộ lạc Turan được mô tả trong các ghi chép bằng tiếng Tân Avestan[4]. Danh hiệu Ramshahr (người gìn giữ hoà bình trong các vùng đất [của mình]) - được - thêm vào các đồng tiền dưới thời trị vì của Yazdegerd I.[5][6][a] Trong bài thơ viết bằng tiếng Ba Tư trung đại mang tên Ayadgar-i Zariran ("Di chúc của Zarer"), danh xưng này được sử dụng bởi người cai trị cuối cùng của vương triều Kayani - Vishtaspa - cũng như sử dụng trong văn bản Hoả giáo của thế kỷ thứ 10 là Denkard[8]. Sự quan tâm của người Sasan đối với hệ tư tưởng Kayani kéo dài cho đến khi đế quốc Sasan diệt vong.[9] Bahram V trong các đồng xu hiếm hoi ở Pars có sử dụng danh xưng kirbakkar (nhân từ).[10] Thời kỳ trị vì của Yazdegerd II đánh dấu việc đúc và cho in các đồng tiền với các dòng chữ mới: mazdēsn bay kay (Đức vua thờ phụng Mazda), thể hiện sự yêu mến đối những người cai trị nhà Kayani, những người cũng sử dụng tước hiệu kay này.[11][12][b] Dưới thời Peroz I (459–484), tước hiệu shahanshah không xuất hiện trên các đồng xu của ông, chỉ xuất hiện dòng chữ kay Peroz ("Vua Peroz").[10] Tuy nhiên một con dấu khác của Peroz lại xuất hiện tước hiệu trên, chứng tỏ rằng đồng xu đôi khi cũng không thể hiện được đầy đủ tước hiệu cuả các vị quân chủ Sasan.[10] Balash, anh trai và cũng là người kế vị của Peroz I, sử dụng tước hiệu hukay ("vị vua tốt").[10][14] Kavadh I (tv. 488–496, 498–531) là vị vua cuối cùng sử dụng tước hiệu kay trên đồng tiền của mình - với đồng tiền cuối cùng phát hành năm 513.[15] Mặt sau các đồng tiền của ông có ghi tên của ông, tuy nhiên từ năm 504 dòng chữ abzōn (cầu mong sự thịnh vượng/phát triển) được thêm vào.[15][10] Dưới thời kỳ trị vì thứ hai cuả Khosrau II (tv. 590, 591–628), chữ tượng hình GDH là xwarrah ("sự tráng lệ hoàng gia"). Ông kết hợp với dòng chữ abzōn trước đó và tạo nên dòng chữ: "Khosrow, người làm tôn lên vẻ tráng lệ hoàng gia (Khūsrōkhwarrah abzōt).[10] Danh xưng shahanshah cũng được khôi phục trên các đồng xu của ông.[10] Hai người kế vị ông, Kavadh II (tv. 628) và Ardashir III (tv. 628–630), đã hạn chế sử dụng tước hiệu này, dường như để tạo khoảng cách với Khosrow II.[10] Về vị vuaNgười đứng đầu Đế quốc Sasan là [shahanshah] (vua của các vị vua), còn được gọi đơn giản là shah (vua). Sức khỏe và phúc lợi của ông luôn quan trọng và cụm từ "Cầu mong ông được bất tử" đã được dùng để đáp lại ông. Bằng cách nhìn vào đồng tiền Sasan xuất hiện từ thế kỷ thứ 6 trở về sau, người ta có thể nhận thấy rõ mặt trăng và mặt trời. Ý nghĩa của mặt trăng và mặt trời, theo lời của nhà sử học Iran [Touraj Daryaee], "gợi ý rằng nhà vua ở trung tâm thế giới và mặt trời và mặt trăng quay xung quanh ông. Như vậy, vị quân chủ Sasan trên thực tế là" vua của bốn góc thế giới," đó là một danh xưng cũ bắt nguồn từ các vị quân chủ vùng Lưỡng Hà."[16] Nhà vua coi tất cả những người cai trị khác, chẳng hạn như người La Mã, người Thổ và người Trung Quốc, là bề dưới của ông. Nhà vua mặc quần áo sặc sỡ, trang điểm, đội vương miện rất nặng, trong khi bộ râu của ông được trang trí bằng vàng. Các vị vua Sasanian đầu tiên tự coi mình là người có nguồn gốc thần thánh; họ tự gọi mình là "bay" (thần thánh).[17] Danh sách quân chủ
Xem thêmGhi chú
Chú thích
Nguồn
|
Portal di Ensiklopedia Dunia