Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở C. nigri là 30 cm.[6] Chúng có màu nâu sẫm với các dải sọc sẫm màu từ vây lưng xuống bụng và quanh cuống đuôi. Bụng phớt đỏ. Hai bên đầu dày đặc các chấm đỏ. Chóp các tia gai vây lưng có màu đen. Cá con được phủ đầy các chấm đỏ toàn thân.
Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 14–15; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 17–18; Số vảy đường bên: 45–50.[7]
Sinh học
Thức ăn của C. nigri chủ yếu là các loài cá nhỏ và động vật giáp xác.
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Serranus nigri”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2022.
^Vella, Noel; Vella, Adriana; Agius Darmanin, Sandra (2016). “Morphological and genetic analyses of the first record of the Niger Hind, Cephalopholis nigri (Perciformes: Serranidae), in the Mediterranean Sea and of the African Hind, Cephalopholis taeniops, in Malta”. Marine Biodiversity Records. 9 (1): 99. doi:10.1186/s41200-016-0101-y. ISSN1755-2672.
^ abRanier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cephalopholis nigri trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2024.
^ abPhillip C. Heemstra & John E. Randall (1993). “Cephalopholis”(PDF). Vol.16. Groupers of the world (Family Serranidae, Subfamily Epinephelinae). Roma: FAO. tr. 51. ISBN92-5-103125-8.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)