USS Osberg (DE-538)

Tàu hộ tống khu trục USS Osberg (DE-538) ngoài khơi Boston, Massachusetts, khoảng tháng 12 năm 1945
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Osberg
Đặt tên theo Carl August Osberg
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Boston, Boston, Massachusetts
Đặt lườn 3 tháng 11, 1943
Hạ thủy 7 tháng 12, 1943
Người đỡ đầu bà Robert H. Hawes
Nhập biên chế 10 tháng 12, 1945
Tái biên chế 26 tháng 2, 1951
Xuất biên chế
Xóa đăng bạ 1 tháng 8, 1972
Số phận Bán để tháo dỡ, 5 tháng 2, 1974
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp John C. Butler
Kiểu tàu tàu hộ tống khu trục
Trọng tải choán nước
  • 1.350 tấn Anh (1.372 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.745 tấn Anh (1.773 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93,3 m)
Sườn ngang 37 ft (11,3 m)
Mớn nước
  • 9 ft 4 in (2,8 m) (tiêu chuẩn)
  • 13 ft 4 in (4,1 m) (đầy tải)
Công suất lắp đặt 12.000 bhp (8.900 kW)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước Westinghouse với hộp số giảm tốc;
  • 2 × trục
  • 2 × chân vịt ba cánh đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 24 kn (28 mph; 44 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 15 sĩ quan
  • 183 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • sonar QC;
  • radar SC dò tìm mặt biển;
  • radar SA dò tìm không trung
Vũ khí

USS Osberg (DE-538) là một tàu hộ tống khu trục lớp John C. Butler từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu úy Hải quân Carl August Osberg (1920–1942), phi công từng phục vụ cùng Liên đội Ném ngư lôi VT-3 phối thuộc cùng tàu sân bay Yorktown (CV-5), đã tử trận trong Trận Midway vào ngày 4 tháng 6, 1942 và được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân.[1][2][3] Nó đã phục vụ trong suốt Thế chiến II, được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1947, rồi được huy động trở lại để tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh từ năm 1951 đến năm 1958. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1974.

Thiết kế và chế tạo

Lớp John C. Butler được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu một số lượng lớn nhưng rẻ tiền của một kiểu tàu hộ tống chống tàu ngầm để hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt đại dương.[4] Chúng có chiều dài chung 306 foot (93,3 m), mạn tàu rộng 36 foot 10 inch (11,2 m) và mớn nước 13 foot 4 inch (4,1 m),[3] trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.350 tấn Anh (1.372 t), và lên đến 1.745 tấn Anh (1.773 t) khi đầy tải, với một thủy thủ đoàn bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ.[5] Con tàu được vận hành bởi hai turbine hơi nước hộp số Westinghouse; hơi nước được cung cấp bởi hai nồi hơi "D" Express, tạo ra công suất 12.000 mã lực càng (8.900 kW) và cho phép đạt được tốc độ tối đa 24 hải lý trên giờ (44 km/h; 28 mph). Nó có tầm hoạt động 6.000 hải lý (11.000 km; 6.900 mi) ở tốc độ đường trường 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph).[5]

Dàn vũ khí chính bao gồm hai tháp pháo 5-inch/38 caliber đa dụng nòng đơn, được dẫn đường bởi hệ thống điều khiển hỏa lực Mark 51; vũ khí phòng không gồm hai khẩu đội Bofors 40 mm L/60 nòng đôi và mười khẩu Oerlikon 20 mm nòng đơn cũng được dẫn đường bởi hệ thống Mark 51.[4] Ngoài ba ống phóng ngư lôi 21 inch (533 mm), vũ khí chống ngầm bao gồm hai đường ray thả mìn sâu, tám máy phóng mìn sâu K-gun cùng một dàn súng cối chống ngầm Hedgehog.[3] Con tàu được trang bị sonar kiểu QC,[5] radar dò tìm mặt biển SL[6] và radar dò tìm không trung SA.[7]

Osberg được đặt lườn tại Xưởng hải quân BostonBoston, Massachusetts vào ngày 3 tháng 11, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 12, 1943, được đỡ đầu bởi bà Robert H. Hawes, chị của Thiếu úy Osberg, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 12, 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Victor Stallworth Mauldin.[3][8][9]

Lịch sử hoạt động

Chỉ hoàn tất sau khi Thế Chiến II đã chấm dứt, Osberg được cho xuất biên chế vào ngày 15 tháng 5, 1947,[3][9] và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương. Sau khi cuộc Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ vào tháng 6, 1950, Osberg được huy động trở lại và được cho tái biên chế vào ngày 26 tháng 2, 1951,[3][9] phục vụ chủ yếu trong vai trò huấn luyện dự bị tại khu vực Đại Tây Dương. Con tàu được cho xuất biên chế lần sau cùng vào ngày 25 tháng 2, 1958,[3][9] rồi rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 8, 1972,[3][9] và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào ngày 5 tháng 2, 1974.[3][9]

Tham khảo

Chú thích

  1. ^ “Carl August Osberg : Ensign from New Hampshire, World War II Casualty”. honorstates.org. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2019.
  2. ^ “Carl Osberg – Recipient – Military Times Hall of Valor”. valor.militarytimes.com. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2019.
  3. ^ a b c d e f g h i Yarnall, Paul R. (17 tháng 9 năm 2019). “USS”. NavSource.org. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2022.
  4. ^ a b Friedman 1982, tr. 141, 149.
  5. ^ a b c Friedman 1982, tr. 421.
  6. ^ Friedman 1981, tr. 149.
  7. ^ Friedman 1981, tr. 146.
  8. ^ Naval Historical Center. Osberg (DE-538). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  9. ^ a b c d e f Helgason, Guðmundur. “USS”. uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2022.

Thư mục

Liên kết ngoài