Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2016[cập nhật] những thế hệ tàu sau đã được sử dụng để phục vụ cho tuyến Nambu, tất cả đều được đặt tại trạm bảo dưỡng tại Nakahara.[4]
Dòng 205-1000: 3 tàu 2 toa (phục vụ tuyến Nambu nhánh, từ tháng 8 năm 2002)
Tàu 4/6 toa dòng 101 (từ năm 1969 tới tháng 1 năm 1991)
Tàu 6 toa dòng 103 (từ 1982 tới tháng 12 năm 2004)
Tàu 2 toa dòng 101 (Tuyến nhánh Nambu, tới tháng 11 năm 2003)
Tàu 6 toa dòng 205-0 (từ tháng 3 năm 1989 tới tháng 12 năm 2015)[5]
Tàu 6 toa dòng 205-1200 (từ năm 2004 tới tháng 1 năm 2016)
Tàu 6 toa dòng 209-0 (từ tháng 4 năm 1993 tới tháng 2 năm 2015)
Tàu 6 toa dòng 209-2200 (từ năm 2010 tới tháng 3 năm 2017)
Một tàu dòng 73 trên Tuyến Nambu tháng 1 năm 1975
Tàu dòng 101 trên Tuyến nhánh Nambu tháng 7 năm 2002
Tàu dòng 103 Tuyến Nambu tháng 6 năm 2001
Tàu dòng 205-0 set 36 Tuyến Nambu tháng 4 năm 2011
Tàu dòng 205-1200 Tuyến Nambu tháng 10 năm 2014
Tàu dòng 209-0 Tuyến Nambu tháng 1 năm 2008
Tàu dòng 209-2200 tháng 4 năm 2011
Lịch sử
Công ty tư nhân Nambu Railway xây dựng tuyến này chia thành 5 chặng từ 1927 đếm 1930 (không kể tuyến vận tải):[6]
27 tháng 3 năm 1927: Kawasaki – Noborito
1 tháng 11 năm 1927: Noborito – Ōmaru (near Minami-Tama)
11 tháng 12 năm 1928: Ōmaru – Bubaigawara (then called Yashikibun)
11 tháng 12 năm 1929: Bubaigawara – Tachikawa
25 tháng 3 năm 1930: Shitte – Hama-Kawasaki
Các tàu phục vụ hành khách sử dụng tàu điện ngay từ khi bắt đầu. Các tuyến vận tải chủ yếu để chở sỏi khai thác được từ sông Tama. Đến điểm cuối ở Tachikawa, tuyến này liên kết với Ōme Electric Railway, đá vôi lại trở thành sản phẩm được vận tải chủ yếu. Tuyến được điều hành bởi Asano zaibatsu, thúc đẩy việc chuyển đá vôi từ các mỏ của chính công ty này ở phía tây Tokyo tới các nhà máy xi măng ở Kawasaki không phụ thuộc vào đường sắt của nhà nước.[7]
Sự tăng trưởng sau chiến tranh của khu đô thị Tokyo đã dẫn đến sự chuyển đổi hầu hết các vùng đất nông nghiệp dọc theo tuyến Nambu thành các khu dân cư và tăng lưu lượng hành khách trên tuyến. Tuyến vận tải giảm dần sau khi khai trương Tuyến Musashino (song song với Tuyến Nambu) vào năm 1976 và chấm dứt hẳn vận chuyển đá vôi vào năm 1998, ngoại trừ tuyến Nambu nhánh, vẫn tiếp tục phục vụ vận tải.
Các chuyến "Tốc hành" từ Kawasaki tới Noborito chỉ dừng ở Musashi-Kosugi và Musashi-Mizonokuchi bắt đầu từ 15 tháng 12 năm 1969, nhưng bị dừng do điều chỉnh giờ vào 2 tháng 10 năm 1978.[8] Sau đó 33 năm, các chuyến tốc hành từ Kawasaki tới Tachikawa có thêm nhiều điểm dừng hơn từ 9 tháng 4 năm 2011, bị trì hoãn từ kế hoạch ban đầu 12 tháng 3 do thảm họa hạt nhân, Động đất và sóng thần Tōhoku 2011.[9]
Định hướng phát triển
Việc xây dựng các ga mới trên tuyến Nambu được thực hiện bởi JR East kết hợp với chính quyền thành phố Kawasaki. Một ga mới với tên tạm thời là Odasakae-Shin Station (小田栄新駅,Odasakae-Shin Station?), kiểu ga tiết kiệm chi phí xây dựng sẽ được đặt giữa Kawasaki-Shinmachi và Hama-Kawasaki, khả năng sẽ mở cửa vào cuối năm tài khóa 2015.[10]
^Saka, Masayuki (tháng 8 năm 2014). 東京メガループ 車両・路線の沿革と現況 [Tokyo Megaloop: History and current situation of trains and line]. Tetsudō Daiya Jōhō Magazine (bằng tiếng Nhật). Japan: Kōtsū Shimbun. 43 (364): 28–39.
^“川崎-立川 快速 4009F”. JR East Timetable. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2016.
^ JR電車編成表 2017冬 [JR EMU Formations - Winter 2017] (bằng tiếng Nhật). Japan: Kotsu Shimbunsha. ngày 16 tháng 11 năm 2016. tr. 91-93. ISBN978-4-330-73716-4.
^205系ナハ39編成が国府津車両センターへ [205 series set 39 moved to Kozu Depot]. Japan Railfan Magazine Online (bằng tiếng Nhật). Japan: Koyusha Co., Ltd. ngày 10 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2015.
^南武支線に新駅設置を検討 [New station under consideration for Nambu Branch Line]. Tetsudo Hobidas (bằng tiếng Nhật). Japan: Neko Publishing Co., Ltd. ngày 29 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2015.