Tẩy não (còn được gọi là kiểm soát tâm trí, thuyết phục cưỡng chế, kiểm soát suy nghĩ, cải cách tư duy và giáo dục lại) là khái niệm rằng tâm trí con người có thể bị thay đổi hoặc kiểm soát bởi một số kỹ thuật tâm lý. Tẩy não được cho là làm giảm khả năng suy nghĩ nghiêm túc hoặc độc lập của chủ thể,[1] để cho phép đưa những suy nghĩ và ý tưởng mới, không mong muốn vào tâm trí của chủ thể,[2] cũng như thay đổi thái độ, giá trị và niềm tin của người này.[3][4]
Khái niệm tẩy não đôi khi liên quan đến các vụ án pháp lý, đặc biệt là liên quan đến các vụ án về quyền nuôi con; và cũng là một chủ đề trong khoa học viễn tưởng và phê bình về văn hóachính trị và doanh nghiệp hiện đại. Mặc dù thuật ngữ này xuất hiện trong phiên bản thứ năm của Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần (DSM-5) của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ [7], tẩy não không được chấp nhận là sự thật khoa học[8] và được mô tả là giả khoa học.[9]
Tham khảo
^Encyclopaedic Dictionary of Religion. 2. Gyan Publishing House. 2005.
^Campbell, Robert Jean (2004). Campbell's Psychiatric Dictionary. USA: Oxford University Press. tr. 403.
^Corsini, Raymond J. (2002). The Dictionary of Psychology. Psychology Press. tr. 127.
^Kowal, D.M. (2000). “Brainwashing”. Trong Love, A.E. (biên tập). Encyclopedia of Psychology. 1. American Psychological Association. tr. 463–464. doi:10.1037/10516-173.
^Wright, Stuart (tháng 12 năm 1997). “Media coverage of unconventional religion: Any "good news" for minority faiths?”. Review of Religious Research. 39 (2): 101–115. doi:10.2307/3512176. JSTOR3512176.
^Melton, J. Gordon (ngày 10 tháng 12 năm 1999). “Brainwashing and the Cults: The rise and fall of a theory”. Center for Studies on New Religions (CESNUR). Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2009. Since the late 1980s, though a significant public belief in cult-brainwashing remains, the academic community-including scholars from psychology, sociology, and religious studies-have shared an almost unanimous consensus that the coercive persuasion / brainwashing thesis proposed by Margaret Singer and her colleagues in the 1980s is without scientific merit.
^Usarski, Frank (ngày 6 tháng 12 năm 2012). Cresswell, Jamie; Wilson, Bryan (biên tập). New Religious Movements: Challenge and Response (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 238. ISBN9781134636969. ... there has been until now a lack of any convincing scientific evidence which can be applied in a generalised form to show that involvement in a New Religious Movement has any destructive consequences for the psyche of the individual concerned.... The fact that, in all the ensuing years, no one has succeeded in verifying beyond reasonable doubt any of these claims, has however, never been regarded as a reason to exonerate the groups in any way.... Thus, up to the time of writing, there has not been one single successful, legal conviction of the Scientology Church, even though this group has come to be regarded as the most dangerous of the new religious organisations.... The fact that even long-term investigations have as yet failed to produce the desired results continues to be ignored.