Nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án nhân dân cấp cao được quy định như sau[1]:
Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.
Các tòa chuyên trách gồm Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên. Trong trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam. Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp cao phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.
Bộ máy giúp việc: Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao gồm có Văn phòng và các đơn vị khác (Điều 34 Luật Tổ chức TAND). Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập và quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, các đơn vị khác thuộc bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp cao.
Văn phòng (có Chánh Văn phòng và không quá 3 Phó Chánh Văn phòng); Bộ phận thống kê tổng hợp, Bộ phận cơ sở vật chất, Bộ phận kế toán, văn thư, lưu trữ đánh máy và các nhân viên lái xe, tạp vụ, bảo vệ, nhân viên kỹ thuật (thực hiện chế độ hợp đồng theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP);
Các phòng giám đốc kiểm tra, gồm: Trưởng phòng, các Phó Trưởng phòng và các thẩm tra viên.
Phòng Tổ chức - Thi đua khen thưởng, gồm: Trưởng phòng, các Phó Trưởng phòng, các công chức làm công tác tổ chức, thi đua-khen thưởng.
Phòng Thanh tra, gồm: Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và các thẩm tra viên, chuyên viên.
Tòa án nhân dân cấp cao là một cấp tòa mới được quy định trong Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014. Trước đây hệ thống tòa án nhân dân ở Việt Nam chỉ có ba cấp là Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án tỉnh, Tòa án huyện. Tòa án nhân dân cấp cao chính thức hoạt động từ ngày 1 tháng 6 năm 2015.[1]