Sư đoàn 3, Quân đội nhân dân Việt Nam
Sư đoàn 3 (hay Sư đoàn Bộ binh 3, Sư đoàn Sao Vàng) là một sư đoàn bộ binh chính quy của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trước đó, đây cũng là sư đoàn đầu tiên của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, thành lập ngày 2 tháng 9 năm 1965. Sư đoàn đã tham gia trong Chiến tranh chống Mỹ cứu nước và Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979 với Trung Quốc. Trụ sở trung tâm chỉ huy đặt tại xã Quang Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Tổ chức hiện tạiBan chỉ huy
Các cơ quan quản trị
Các đơn vị trực thuộc
Tên gọiCũng như phần lớn các đơn vị từ cấp trung đoàn trở lên của Quân đội nhân dân Việt Nam, Sư đoàn 3 được mang một danh hiệu riêng là Sư đoàn Sao Vàng. Tên gọi này được đặt với ý nghĩa "nhắc cán bộ chiến sĩ hãy dũng cảm chiến đấu vì lá cờ vinh quang của Tổ quốc, vì một nước Việt Nam độc lập và thống nhất" [1] Lịch sửNgày 9 tháng 8 năm 1965, Thường vụ Đảng ủy Quân khu 5 họp ra nghị quyết thành lập các sư đoàn chủ lực của Quân khu 5. Sư đoàn 2 phụ trách chiến trường chính của quân khu từ tỉnh Quảng Ngãi ra Quảng Nam. Sư đoàn 3 lấy nam Quảng Ngãi và Bình Định làm địa bàn hoạt động chủ yếu. Ngày 2 tháng 9 năm 1965, lễ thành lập chính thức Sư đoàn 3 được tổ chức tại khu rừng Bà Bơi, xã Ân Nghĩa, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Bộ Tư lệnh sư đoàn gồm:
Thành phần của sư đoàn gồm:
Sư đoàn 3 được xác định là sư đoàn cơ động của Quân khu 5. Trước mắt Sư đoàn nhận nhiệm vụ chiến đấu chủ yếu ở các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk, lấy Bình Định, Quảng Ngãi làm hậu cứ. Hoạt động trong Chiến tranh Việt NamTừ năm 1965 đến 1970, Sư đoàn 3 liên tục phải chiến đấu với nhiều đơn vị thuộc các binh chủng khác nhau của đối phương như Sư đoàn kỵ binh số 1, Sư đoàn không vận 101, Sư đoàn bộ binh số 23, Lữ đoàn không vận 173 (Mỹ), Sư đoàn 22 bộ binh (Việt Nam Cộng hòa)... đặc biệt là những trận chiến với Sư đoàn bộ binh Mãnh Hổ, Sư đoàn Bộ binh 9 Hàn Quốc hay còn gọi Sư đoàn bộ binh Bạch Mã (Hàn Quốc). Trong tết mậu Thân 1968, sư 3 bị tổn thất tương đối và không thể bung rộng hoạt động trong năm 1969. Tháng 2 năm 1970, phân tán E22 để tăng cường cho tỉnh và đơn vị khác., Tháng 7 năm 1970, do những khó khăn về tiếp tế lương thực, vũ khí và trang bị, Quân khu 5 quyết định giải thể Sư đoàn 3. Bộ Tư lệnh Sư đoàn chuyển thành bộ phận tiền phương quân khu, các đơn vị trực thuộc bổ sung cho Trung đoàn 2 và 12. Ngày 29 tháng 6 năm 1971, Sư đoàn 3 được tái lập với thành phần gồm các trung đoàn 2, 12, 21 và các tiểu đoàn pháo cối, cao xạ, công binh. Tháng 4 năm 1972, Sư 3 là lực lượng chính của Quân khu 5 trong chiến dịch Bắc Bình Định (ngày 9 tháng 4 đến ngày 3 tháng 5 năm 1972) nhằm vào 3 huyện Hoài Ân, thị xã Hoài Nhơn, Phù Mỹ, E12 làm nhiệm vụ cắt đứt đường 19 lên Bắc Tây Nguyên. Từ ngày 16 tháng 7 năm 1972, Sư 3 chiến đấu bảo vệ Hoài Ân trước sự phản kích của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, kéo dài cho đến khi Hiệp định Paris ký kết ngày 28 tháng 1 năm 1973 mới kết thúc. Cuối tháng 6 năm 1973 rút E21 và điều E141 (sư 2) về đứng trong đội hình sư 3. Năm 1974, Sư đoàn được tăng cường Trung đoàn pháo binh 68 trong biên chế. Tháng 3 năm 1975, Sư 3 cắt Đường 19 và tiến công tiêu diệt Sư đoàn 22 QLVNCH ở Bình Định, chiếm thị xã Quy Nhơn. Riêng trung đoàn 2 bị mất một tiểu đoàn phó và nhiều trinh sát. Tháng 4 năm 1975, khi hồi phục, Sư 3 được tăng cường cho Quân đoàn 2 thành cánh quân Duyên Hải để dứt điểm Qk5, một cánh quân nhỏ của sư 3 tách ra thanh lọc những toán đối phương còn kháng cự và cướp bóc ở thị xã Nha Trang. Sau cùng, các đơn vị nối đuôi nhau tiến dọc theo Đường số 1. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, sư đoàn tiến công đánh chiếm Vũng Tàu và đứng chân tạm thời ở đó. Sau khi nước nhà thống nhấtTháng 6 năm 1976, Sư đoàn 3 được điều ra phía Bắc trực thuộc Quân khu 3, vừa làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Tháng 7 năm 1978, được điều về Quân khu 1 làm nhiệm vụ phòng thủ trên hướng Lạng Sơn, do Bộ TTM dự đoán được ý đồ của quân xâm lược bành trướng Trung Quốc. Từ ngày 17 tháng 2 đến ngày 5 tháng 3 năm 1979, Sư đoàn 3 chiến đấu bảo vệ Lạng Sơn và là một trong những đơn vị có hiệu suất chiến đấu cao nhất trong Chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Quốc, gây cho đối phương nhiều thiệt hại và cả nể trọng. Ngày 23 tháng 2 năm 1979, Sư đoàn 3 về đứng trong đội hình Quân đoàn 14 hay còn gọi là Quân đoàn 5 (Binh đoàn Chi Lăng) cho đến khi quân đoàn này giải thể.
Thành tíchTháng 1 năm 1976, Sư đoàn 3 được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiều đơn vị và cá nhân trong Sư đoàn cũng được tặng danh hiệu Anh hùng cũng như nhiều huân, huy chương các loại. Lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn qua các thời kỳChú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài |
Portal di Ensiklopedia Dunia