Tuy nhiên, có 6 trong số các loài bản địa của khu vực Ấn–Thái Dương lại được tìm thấy ở ngoài khơi bờ biển Florida (Hoa Kỳ), đó là P. annularis, P. asfur, P. imperator, P. maculosus, P. semicirculatus và P. xanthometopon[2]. Pomacanthus bao gồm những loài có hoa văn và màu sắc sặc sỡ nên rất được ưa chuộng để nuôi làm cá cảnh. Vì vậy, nhiều khả năng là do sự phóng thích từ các bể cá đã khiến cho những loài này xuất hiện tại Đại Tây Dương.
Ngoài ra, theo dòng kênh đào Suez, P. imperator và P. maculosus đã tiến xa về vùng biển phía bắc, khi cả hai loài đều được ghi nhận là có mặt tại Địa Trung Hải[3][4][5].
Các loài
Có 13 loài được công nhận là hợp lệ trong chi này, được xếp thành 4 phân chi, bao gồm[6]:
Cá con và cá trưởng thành của tất cả các loài Pomacanthus đều có kiểu màu khác biệt nhau hoàn toàn. Ngoại trừ cá con của Pomacanthus có màu đen với các dải sọc màu vàng (P. zonipectus còn có thêm các sọc mảnh màu xanh óng)[10], cá con của 3 phân chi còn lại đều có màu cơ thể là xanh lam thẫm với các dải sọc màu trắng và xanh óng, riêng cá con P. asfur và P. maculosus có thêm một vệt vàng ở hai bên thân[8].
Cá trưởng thành có thân hình bầu dục. P. imperator và toàn bộ các loài của Euxiphipops đều có vây lưng và vây hậu môn bo tròn (Euxiphipops có vây bụng dài, chạm đến hậu môn)[7][9]; các loài Acanthochaetodon còn lại chỉ có vây hậu môn bo tròn, còn vây lưng phát triển với các tia vây vươn dài[7]; toàn bộ những loài còn lại đều có vây hậu môn và vây lưng phát triển với các tia vây vươn dài về sau, vượt qua cả vây đuôi[8][10].
Cá con của nhóm phân chi Pomacanthus có hành vi làm vệ sinh cho những loài cá lớn hơn. Trong khi đó, ở khu vực Ấn–Thái Dương, chỉ có cá con của P. imperator được ghi nhận là có hành vi này[10]. Không những vậy, ngay cả P. imperator trưởng thành cũng được bắt gặp trong một lần đang dọn vệ sinh cho cá mặt trăng ở ngoài khơi Indonesia[11].
Lai tạp
Như những chi còn lại trong họ Cá bướm gai, nhiều loài Pomacanthus còn được biết đến là có thể lai tạp với nhau. Những cá thể lai đã được ghi nhận giữa các cặp loài sau đây[12]:
P. maculosus × P. asfur
P. sexstriatus × P. xanthometopon
P. navarchus × P. xanthometopon
P. chrysurus × P. maculosus
P. maculosus × P. semicirculatus
P. chrysurus × P. semicirculatus
P. imperator × P. chrysurus
P. imperator × P. semicirculatus
P. rhomboides × P. semicirculatus
Từ nguyên
Từ định danh của chi được ghép bởi hai từ trong tiếng Hy Lạp cổ đại: poma ("nắp") và acanthus ("gai, ngạnh"), hàm ý đề cập đến hàng gai nổi rõ ở rìa sau của nắp mang (cũng là đặc điểm chung của tất cả các loài cá bướm gai)[13].
Tham khảo
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Pomacanthus”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2021.
^P. J. Schofield; J. A. Morris; L. Akins (2009). “Field Guide to Nonindigenous Marine Fishes of Florida”(PDF). NOAA Technical Memorandum NOS NCCOS. 92: 30–41. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2021. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
^Julian Evans và cộng sự (2016). “First record of the yellowbar angelfish Pomacanthus maculosus (Forsskål, 1775) in the central Mediterranean (Maltese Islands)”. Journal of Applied Ichthyology. 32 (6): 1226–1228. doi:10.1111/jai.13188.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order ACANTHURIFORMES (part 1)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2021.