Nogizaka46 (乃木坂46 (Nãi Mộc Phản 46),Nogizaka Fōtī Shikkusu?, đọc: "Nogizaka forty-six") là một nhóm nhạc thần tượng nữNhật Bản do Akimoto Yasushi thành lập và quản lý, được coi như "đối thủ chính thức" (公式ライバル,kōshiki raibaru?) của nhóm AKB48.[1] Nhóm là 1 trong 4 nhóm chị em thuộc Sakamichi Series cùng với Sakurazaka46 (trước là Keyakizaka46), Hinatazaka46 và Yoshimotozaka46
Từ khi ra mắt đến nay, nhóm phát hành 25 đĩa đơn và 5 album tổng hợp. Bắt đầu từ đĩa đơn thứ 3, mỗi đĩa đơn phát hành của Nogizaka46 đều đạt vị trí cao trên bảng xếp hạng Oricon hàng tuần, và kể từ đĩa đơn "Influencer" đã bán được ít nhất 1 triệu bản. Nhóm cũng có chương trình radio, sân khấu, chương trình truyền hình và phim, bao gồm NogiBingo!, Hatsumori Bemars, Nogizaka Under Construction, Asahinagu cùng một loạt phim tài liệu về nhóm.Nogizaka46 đã 2 lần giành Giải Grand Prix tại Japan Record Awards hàng năm cho "Influencer" vào năm 2017 và "Synchronicity" vào năm 2018. Nhóm bán được gần 18 triệu đĩa CD tại Nhật Bản.
Lịch sử
2011-2012: Ra mắt & những bước tiến đầu tiên
Việc thành lập Nogizaka46 được công bố vào ngày 29 tháng 6 năm 2011. Nhóm được coi là nhóm đối thủ chính thức đầu tiên của AKB48[2]. Nhóm khác với SKE48 và NMB48, vì những nhóm này là nhóm chị em của AKB48. Nogizaka46 được đặt theo tên tòa nhà SME Nogizaka, nơi đặt văn phòng của Sony Music Nhật Bản gần nhà ga Nogizaka. Chủ nhiệm Akimoto Yasushi cho biết số "46" được chọn là một lời thách trực tiếp đến AKB48, ngay cả tên nhóm cũng có nghĩa rằng "kể cả có ít thành viên so với AKB48, chúng tôi sẽ không thua đâu"/ Trái với AKB48 và các nhóm chị em, hình ảnh của nhóm dựa trên quan niệm của người Nhật Bản về những nữ sinh trung học có phong cách thời trang lịch sự ở Pháp, mang ý nghĩa của sự sang trọng và tinh tế.
Buổi tuyển chọn cuối cùng cho thế hệ đầu tiên được tổ chức từ 20-21 tháng 8, 56 thí sinh tham gia thi tại 36 địa điểm. Tổng cộng, 38934 người đăng ký tham gia[3]. Danh sách 36 thí sinh được chọn được công bố vào ngày 22 tháng 8, với 16 thành viên lọt vào đội hình cuối cùng. Vào ngày 2 tháng 10, nhóm ra mắt chương trình tạp kỹ đầu tiên Nogizakatte, Doko? (乃 木 坂 っ て 、 ど こ?)[4][5]
Vào ngày 22 tháng 2 năm 2012, Nogizaka46 phát hành đĩa đơn đầu tay "Guruguru Curtain", đĩa đơn đứng thứ 2 trên bảng xếp hạng Oricon và bán được 136.309 bản trong tuần đầu tiên[6]. Đĩa đơn thứ 2 "Oide Shampoo", được phát hành vào ngày 2 tháng 5 cùng năm, và trở thành bài hát đạt hạng 1 đầu tiên trên bảng xếp hạng hàng tuần Oricon với doanh số 156.000 bản.[7] Vũ đạo của "Oide Shampoo" đã gây ra một cuộc tranh cãi ngắn, khi các nhà phê bình không chấp nhận việc các thành viên vén váy che mặt trong một phần của màn trình diễn.[8]
Vào tháng 6 năm 2012, Nogizaka46 tham gia Yubi Matsuri, một lễ hội thần tượng do Sashihara Rino sản xuất, biểu diễn trước 8.000 người tại Nippon Budokan.[9][10] Họ ra mắt vở nhạc kịch đầu tiên mang tên 16 nin no Principal tại Nhà hát Shibuya Parco vào tháng 9.[11] Cuối năm 2012, Nogizaka46 đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng hàng năm của Oricon ở hạng mục doanh thu dành cho tân binh với doanh thu hàng năm là 870 triệu yên.[12]
2013–2015: Thế hệ thứ 2 & nổi tiếng toàn Nhật Bản
Nogizaka46 tổ chức buổi concert kỷ niệm 1 năm ra đời tại Makuhari Messe ở Chiba vào tháng 2 năm 2013, thu hút 9.000 người hâm mộ[13]. Từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 4 năm 2013, buổi thử giọng cho thế hệ thứ 2 được tổ chức với 14 thành viên mới được chọn trong số 16.302 người đăng ký[14]. 13 trong số đó được giới thiệu tại buổi biểu diễn nhạc kịch 16 nin no Principaldeux, phần tiếp theo của vở nhạc kịch trước đó vào tháng 5 năm 2013.[15] Nhóm ra mắt chương trình radio đầu tiên Nogizaka46no, No (乃 木 坂 46 の 「の)[16] và phát hành cuốn sách ảnh đầu tiên Nogizaka Ha phát hành vào /10, đứng thứ 4 trên bảng xếp hạng sách hàng tuần của Oricon với 27.000 bản được bán ra.[17][18]
Vào tháng 2 năm 2014, Nogizaka46 tổ chức buổi concert kỷ niệm 2 năm tại Yokohama Arena với 13.000 người tham dự[19]. Trong buổi biểu diễn, nhóm thông báo vở nhạc kịch 16 nin no Principal trois sẽ công chiếu tại Nhà hát Akasaka ACT vào ngày 30 tháng 5 đến ngày 15 tháng 6[20]. Nhóm phát hành phiên bản DVD và Blu-ray của buổi hòa nhạc kỷ niệm 1 năm, đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng DVD hàng tuần của Oricon, bán được 12.000 bản trong tuần đầu tiên[21]. Vào ngày 24/2/2014, tại một sự kiện của AKB48, có thông báo Ikoma Rina sẽ tham gia Team B nhóm AKB48, và Matsui Rena từ Team E nhóm SKE48 sẽ giữ một vị trí kiêm nhiệm với Nogizaka46.[22] Vào ngày 5 tháng 7, nhóm biểu diễn ở nước ngoài lần đầu tiên cùng các nghệ sĩ Nhật Bản tại Japan Expo 2014 ở Paris.[23]
Vào ngày 7 tháng 1 năm 2015, Nogizaka46 phát hành album đầu tiên Tōmei na Iro, bán được hơn 220.000 bản trong tuần đầu tiên. Album đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng album hàng tuần của Oricon.[24] Tháng sau đó nhóm tổ chức buổi concert kỷ niệm 3 năm trước 38.000 người tại Seibu Dome ở Saitama[25]. Ikoma Rina trở lại Nogizaka46, còn Matsui Rena trở lại SKE48[26]. Nhóm ra mắt chương trình tạp kỹ mới Nogizaka Kōjichū (乃 木 坂 工事 中), thay thế Nogizakatte, Doko?. Bộ phim truyền hình đầu tiên Hatsumori Bemars công chiếu trên kênh TX vào tháng 7.[27] Nogizaka46 kết thúc năm bằng việc ra mắt tại đại nhạc hội NHK Kōhaku Uta Gassen của đài NHK, nơi nhóm biểu diễn đĩa đơn thứ 5 "Kimi no Na wa Kibō".[28][29]
2016–2017: Thế hệ thứ 3 & Japan Record Award
Từ ngày 20-22 tháng 2 năm 2016, Nogizaka46 phát sóng chương trình Internet Nogizaka46 4th Anniversary Nogizaka 46 hours TV, trong đó các thành viên sản xuất và biểu diễn các bài hát trong 46 giờ liên tục đồng thời trên 6 trang web[30]. Trong tuần sau đó, đĩa đơn thứ 12 "Taiyō Nokku" đạt giải tại Japan Gold Disc Award lần thứ 30[31]. Vào ngày 25 tháng 5, nhóm phát hành album thứ 2 Sorezore no Isu, đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng album hàng tuần của Oricon[32][33]. Nhóm quảng bá album trong buổi phát sóng thứ 2 của Nogizaka 46 hours TV[34]. Vào ngày 5/8, nhóm phát hành sách ảnh thứ 2 1 Jikan Okure no I Love You, bán được 41.000 bản trong tuần đầu tiên và đứng thứ nhất trên bảng xếp hạng sách hàng tuần của Oricon.[18]
Từ ngày 19 tháng 7 đến 4 tháng 9, buổi thử giọng thế hệ thứ 3 đã diễn ra, với 13 thí sinh lọt vào vòng cuối cùng trong số 48986 ứng viên phát sóng qua trang web SHOWROOM, 12 trong số họ lọt vào đội hình chính thức.[14][35][36][37] Buổi concert kỷ niệm 4 năm của nhóm được tổ chức trong 3 ngày cuối cùng của chuyến lưu diễn mùa hè, thay vì trước đó trong năm[38][39]. Vào tháng 11, Nogizaka46 phát hành đĩa đơn thứ 16 "Sayonara no Imi", đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng đĩa đơn hàng tuần của Oricon, bán được 827,717 bản trong tuần đầu tiên.[40] "Sayonara no Imi" trở thành đĩa đơn đạt mốc triệu bản đầu tiên của nhóm được RIAJ chứng nhận[41]. Nogizaka46 kết thúc năm với lần thứ 2 xuất hiện tại NHK Kōhaku Uta Gassen.[42]
Vào tháng 2 năm 2017, Nogizaka46 biểu diễn buổi concert kỷ niệm 5 năm trong 3 ngày tại Saitama Super Arena[43]. Ngày đầu tiên của buổi concert là buổi biểu diễn cuối cùng của Hashimoto Nanami, người sau đó từ giã làng giải trí. Vào tháng 5, nhóm ra mắt vở kịch mới dựa trên bộ truyện tranh Asahinagu, biểu diễn ở Tokyo, Osaka và Aichi. Cùng tháng đó, họ phát hành album thứ 3 mang tên Umarete Kara Hajimete Mita Yume[44]. Phim điện ảnh đầu tiên của nhóm chuyển thể từ truyện tranh Asahinagu do Nishino Nanase thủ vai chính, ra mắt trên khắp Nhật Bản vào tháng 9.[45] Bài hát chủ đề "Itsuka Dekiru kara Kyō Dekiru" sau đó là đĩa đơn thứ 19 của nhóm.
Chuyến lưu diễn toàn quốc của nhóm tổ chức tại Tokyo, Sendai, Osaka, Nagoya và Niigata, kết thúc vào ngày 7 và 8 tháng 11 tại Tokyo Dome, thu hút hơn 55.000 người hâm mộ mỗi ngày[46][47][48]. Ba tuần sau, họ biểu diễn ở nước ngoài lần thứ 2 khi các thành viên biểu diễn trực tiếp tại C3AFA Singapore[49]. Nhóm kết thúc năm bằng việc giành giải tại Japan Record Awards cho "Influencer" và xuất hiện lần thứ 3 liên tiếp tại NHK Kōhaku Uta Gassen[50][51].
2018–nay: Thế hệ thứ 4+5 & mở rộng tầm ảnh hưởng
Từ ngày 6 tháng 7-2 tháng 9 năm 2018, nhóm tổ chức chuyến lưu diễn toàn quốc, bắt đầu bằng buổi concert mừng sinh nhật từ ngày 6-8 tháng 7[52]. Vào ngày 1 tháng 12, nhóm tổ chức concert độc lập đầu tiên ở nước ngoài tại Mercedes-Benz Arena ở Thượng Hải[53]. Tại Lễ trao giải Japan Record Awards lần thứ 60, Nogizaka46 giành được Giải thưởng chính Japan Record Award cho đĩa đơn thứ 20 "Synchronicity", đánh dấu lần thứ 2 liên tiếp giành được Giải thưởng này[54]. Vào tháng 1 năm 2019, Nogizaka46 đến Đài Loan biểu diễn tại KKBox Music Awards và tổ chức một buổi concert tại Nhà thi đấu Đài Bắc[55][56]. Nhóm trở lại Thượng Hải vào tháng 10, và đến Đài Bắc vào tháng 1 năm 2020.[57][57]
Một loạt các thành viên thế hệ đầu tiên tốt nghiệp vào 2018, bắt đầu với Ikoma Rina, người làm center (thành viên tâm điểm) của 6 đĩa đơn của nhóm tốt nghiệp vào tháng 4[58]. Ngày cuối cùng của buổi kỷ niệm 7 năm vào tháng 2 năm 2019 là buổi concert tốt nghiệp của thành viên thế hệ đầu tiên Nishino Nanase, người làm center/đồng center của 7 đĩa đơn[59]. Vào tháng 3, Etō Misa tổ chức buổi biểu diễn solo cuối cùng trước công chúng[60]. Đội trưởng đầu tiên của nhóm Sakurai Reika tốt nghiệp vào ngày cuối cùng của chuyến lưu diễn toàn quốc mùa hè và Akimoto Manatsu kế nhiệm làm đội trưởng.[61]
Vào ngày 7 tháng 1 năm 2020, Shiraishi Mai thông báo kế hoạch rời nhóm sau khi phát hành đĩa đơn thứ 25[62]. Vào ngày 28 tháng 4, thông qua blog chính thức, cô thông báo do đại dịch COVID-19, lễ tốt nghiệp của cô sẽ bị trì hoãn cho đến khi an toàn.[63]
Vào mùa hè năm 2018, một buổi thử giọng chung được tổ chức với Keyakizaka46 và Hinatazaka46. Sau buổi thử giọng, 39 thành viên được chọn và 11 người lọt vào đội hình cho thế hệ thứ 4. Vào ngày 16 tháng 2 năm 2020, nhóm bổ sung 5 thực tập sinh của Sakamichi Series sang nhóm[64]
Vào tháng 6 năm 2021, Gomen ne Fingers Crossed lập kỷ lục của nhóm khi đứng vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Billboard Japan Hot 100 mới nhất khi bán được tổng cộng 704.346 bản trong tuần đầu tiên.[65]
Vào ngày 19 tháng 7 năm 2021, nhóm thông báo tổ chức buổi thử giọng cho thế hệ thứ 5, nhóm nhận đơn đăng ký bắt đầu cùng ngày và diễn ra vào ngày 10 tháng 8. Thế hệ 5 sẽ được công bố vào tháng 12 [66]. Nhóm thông báo sẽ ra mắt single thứ 28 Kimi ni Shikarareta vào ngày 22/9[67]
^AKB48"公式"ライバル乃木坂46、36人決定 毎日が総選挙?! [AKB48 Official rival Nogizaka46, 36 members were selected] (bằng tiếng Nhật). oricon ME inc. 22 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2016.
^乃木坂46が文化放送『乃木坂46の「の」』で初のラジオ冠番組決定!! (bằng tiếng Nhật). Nogizaka46 Official Website. 28 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2013.
^『乃木坂46 真夏の全国ツアー2018』開催決定!チケット先行は5月27日より! [Nogizaka46 Midsummer National Tour 2018 decided! Ticket sales for fan club members will start from May 27!] (bằng tiếng Nhật). Nogizaka46LLC. 12 tháng 5 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2018.
^NOGIZAKA46 LIVE in Shanghai 2018 開催決定! [Nogizaka46 LIVE in Shanghai 2018 decided!] (bằng tiếng Nhật). Nogizaka46LLC. 9 tháng 9 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2018.
^『レコ大』乃木坂46が2年連続の大賞 西野七瀬と白石麻衣が涙のハグ [Nogizaka46 wins 2nd consecutive Grand Prize, Nanase Nishino and Mai Shiraishi in tearful hug]. Oricon News (bằng tiếng Nhật). 30 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2018.
^NOGIZAKA46 LIVE in Taipei 2019 開催決定のお知らせ [NOGIZAKA46 LIVE in Taipei 2019 announced.] (bằng tiếng Nhật). Nogizaka46LLC. 18 tháng 11 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2018.
^ ab“乃木坂2年連続の上海公演 センターなど新体制披露”. Nikkan Sports (bằng tiếng Nhật). 27 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2020.
^“西野七瀬、卒コンで白石麻衣と涙の抱擁30秒” [Nanase Nishino and Mai Shiraishi in tearful hug at graduation concert]. Oricon News (bằng tiếng Nhật). 25 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
^“乃木坂46衛藤美彩、異例の卒業ソロ公演” [Misa Etō in exceptional graduation solo performance]. Oricon News (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2019.
^“秋元真夏「誰よりも玲香の応援団になる」手紙全文”. Nikkan Sports (bằng tiếng Nhật). 2 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2020.
^中元日芽香、乃木坂46からの卒業を発表 [Himeka Nakamoto announces her graduaiton] (bằng tiếng Nhật). Nogizaka46LLC. 28 tháng 1 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2017.
^乃木坂46伊藤万理華、卒業を発表<本人コメント> [乃木坂46伊藤萬理華,宣布畢業<收錄本人發文>]. modelpress (bằng tiếng Nhật). Netnative Inc. 2 tháng 10 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2017.
^きっかけ。787回目<本人コメント> [起端。第787次<收錄本人發文>]. 乃木坂46官方部落格 (bằng tiếng Nhật). 乃木坂46合同會社. 10 tháng 11 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2017.
^川村真洋 乃木坂46からの卒業を発表 [Mahiro Kawamura announces her graduation] (bằng tiếng Nhật). Nogizaka46LLC. 2 tháng 2 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2018.
^乃木坂46生駒里奈ラスト握手会に3万5000人集結「最高のメンバーに出会えた」 [Nogizaka46 Rina Ikoma Last handshake event with 35,000 people "I met the best members"] (bằng tiếng Nhật). Natalie. 5 tháng 5 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2020.
^ ab斎藤ちはる、相楽伊織、乃木坂46からの卒業を発表 [Chiharu Saitō and Iori Sagara announce their graduations] (bằng tiếng Nhật). Nogizaka46LLC. 20 tháng 5 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2018.
^若月佑美、乃木坂46からの卒業を発表 [Yumi Wakatsuki announces her graduation] (bằng tiếng Nhật). Nogizaka46LLC. 1 tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2018.
^能條愛未、乃木坂46からの卒業を発表 [Ami Noujou announces her graduation] (bằng tiếng Nhật). Nogizaka46LLC. 5 tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2018.
^川後陽菜、乃木坂46からの卒業を発表 [Hina Kawago announces her graduation] (bằng tiếng Nhật). Nogizaka46LLC. 22 tháng 11 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2018.
^西野七瀬、乃木坂46からの卒業を発表 [Nanase Nishino announces her graduation] (bằng tiếng Nhật). Nogizaka46LLC. 20 tháng 9 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2018.
^“乃木坂卒業の伊藤かりん「誇りに思う」スピーチ全文”. Nikkan Sports (bằng tiếng Nhật). 25 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2019.
^“元乃木坂斉藤優里コメディー舞台出演、卒業後初仕事”. Nikkan Sports (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2019.
^“乃木坂46松村沙友理が涙の卒業発表 「27枚目シングルの活動をもって」”. Nikkan Sports (bằng tiếng Nhật). Nikkan Sports. Nikkan Sports. 15 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2021.
^“Official blog”. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2021.
^“Official blog”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2021.
^“Official blog”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2021.
^“高山一実、笑顔と涙で乃木坂卒業 ファンには感謝込めた短編小説配布”. Nikkan Sports (bằng tiếng Nhật). Nikkan Sports. Nikkan Sports. 22 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2021.
^“乃木坂2期生の寺田蘭世が卒業発表「運命的な感じでした」と加入時振り返る”. Nikkan Sports (bằng tiếng Nhật). Nikkan Sports. Nikkan Sports. 17 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2021.
“週間 デジタルシングル (単曲) ランキング 2019年06月10日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 10 tháng 6 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
^Cumulative digital sales for "Yoake Made Tsuyogaranakutemoii":
“週間 デジタルシングル (単曲) ランキング 2019年09月09日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 9 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
“週間 デジタルシングル (単曲) ランキング 2019年09月16日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 16 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
“週間 デジタルシングル (単曲) ランキング 2020年04月13日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 13 tháng 4 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
^Cumulative physical sales for "Boku wa Boku o Suki ni Naru":
“週間 シングルランキング 2021年02月08日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 8 tháng 2 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年02月15日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 15 tháng 2 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年02月22日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 22 tháng 2 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年03月01日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 1 tháng 3 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年03月08日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 8 tháng 3 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年03月15日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 15 tháng 3 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年03月22日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 22 tháng 3 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年03月29日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 29 tháng 3 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年04月05日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 5 tháng 4 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年04月12日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 12 tháng 4 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年04月19日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 19 tháng 4 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年04月26日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 26 tháng 4 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年05月17日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 17 tháng 5 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2021.
^Cumulative physical sales for "Gomen ne Fingers Crossed":
“週間 シングルランキング 2021年06月21日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 21 tháng 6 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2021.
“週間 シングルランキング 2021年06月28日付” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 28 tháng 6 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2021.
^Cumulative digital sales for "Gomen ne Fingers Crossed":