Người Gia Rai
Người Gia Rai, còn gọi là Jarai (Jrai) hay Ană Krai (con của rồng), là một dân tộc cư trú ở vùng Tây Nguyên của Việt Nam, đa số là tại Gia Lai và một ít ở Campuchia. Người Gia Rai còn có tên gọi khác là người Jrai (hay Ană Pô Grei, Anak Drai hay Jarai-từ gốc: con cái của Ga Rai, người Gia Rai, Gia Lai theo phiên âm tiếng Việt), có các nhóm phương ngữ Jrai Chor, Jrai Mơthur, Jrai Hdrung, Jrai Tơbuan, Jrai Arap.[2] Người Gia Rai nói tiếng Gia Rai, một ngôn ngữ thuộc phân nhóm ngôn ngữ Chăm của ngữ tộc Malay-Polynesia trong ngữ hệ Nam Đảo. Người Gia Rai thuộc nhóm chủng tộc Austronesia. Tại Việt Nam, họ là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.[3][4] Dân số của người Gia Rai là 513.930 (năm 2019),[1] 411.275 người (năm 2009),[5] và 317.557 (năm 1999).[6] Tại Campuchia, họ sống ở tỉnh Ratanakiri với dân số cỡ 20.800 và được xếp vào nhóm Khmer Loeu.[7] Khái quátNgười Gia Rai là một nhánh lớn của tộc người Rang Đê cổ (Rang Đê gồm hai dân tộc Êđê và Gia Rai ngày nay) được ghi chép khá nhiều trong các bia ký Chăm Pa, sự tấn công của đế quốc Mông Cổ, sau này là nam tiến của người Việt đã đẩy bộ phận người Chăm Pa lên vùng bình nguyên Cheo Reo, hòa hợp với người Êđê cổ tạo ra nhóm tộc người tự gọi là Ană Jrai Hơbai, tức con cái của Gia Rai.Trong văn hóa và tính cách của người Gia Rai có nhiều yếu tố Chăm Pa trung đại hơn so với người Êđê vốn chịu ảnh hưởng đứt gãy của yếu tố Lâm Ấp Chăm Pa cổ đại. Người Gia Rai còn giữ được yếu tố ngôn ngữ Rang Đê cổ đó là ngôn ngữ đa âm hơn so với người Êđê. Dân số và địa bànNgười Gia Rai sinh sống và cư trú chủ yếu tập trung ở tỉnh Gia Lai (90%), một bộ phận ở tỉnh Kon Tum (5%) và phía bắc tỉnh Đắk Lắk (4%). Khoảng vài ngàn người Gia Rai sinh sống tại khu vực Ratanakiri, Campuchia nhưng chưa có số liệu chính thức từ Viện thống kê quốc gia Campuchia. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Gia Rai ở Việt Nam có dân số 513.930 người, cư trú tại 47 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Gia Rai cư trú tập trung tại các tỉnh: Gia Lai (459.738 người, chiếm 29,2% dân số toàn tỉnh và 90,5% tổng số người Gia Rai tại Việt Nam), ngoài ra còn có ở Kon Tum (25.883 người), Đắk Lắk (20.495 người).[5] Đây là dân tộc bản địa có số dân đông nhất Tây Nguyên. Lịch sử và tên gọiVào năm 1471, Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép về sự kiện Chămpa đầu hàng quân Đại Việt của vua Lê Thánh Tông như sau: Một lúc sau, đứng xa trông thấy toán quân đi trước đã trèo lên được chỗ tường thấp trên mặt thành, bèn bắn luôn ba tiếng pháo để tiếp ứng, lại hạ lệnh cho vệ quân thần võ phá cửa đông thành tiến vào. Thành Chà Bàn bị phá vỡ. Quân Đại Việt bắt được hơn ba vạn tù binh và chém được hơn bốn vạn thủ cấp. Ngô Nhạn dẫn tướng đầu hàng là bác ruột Trà Toàn tên là Bô Sản Ha Ma. Lê Thánh Tông sai trưng bày những thứ người Chiêm dùng làm lễ vật đem đến xin hàng mà ở Đại Việt không có, sai viên quan đô úy Đỗ Hoàn chỉ tên từng thứ một. Có cái hộp bạc, hình như thanh kiếm, vua hỏi vật gì. Hoàn trả lời rằng đó là đồ của nước Chiêm Thành từ xưa, người làm quốc vương phải có vật đó để truyền cho con cháu. Quân Thuận Hóa bắt sống Trà Toàn dẫn đến trước vua Lê Thánh Tông, nhà vua cho Trà Toàn được sống. Hôm ấy là ngày mồng 1 tháng 3 âm lịch (1471). Cuộc nam tiến của người Việt xuống Chăm Pa tạo ra các làn sóng người Chăm Pa vùng ven biển Trung, Nam Trung Bộ liên tục chuyển cư lên vùng bình nguyên Cheo Reo, hỗn dung với cộng đồng Rang Đê có trước, từ đó hình thành ra nhóm tộc người mới Anak Jrai. Nhóm Rang Đê vùng thung lũng sông Ba tự gọi mình là Ană Jrai. Ană Jrai chính là cụm danh xưng Pô Krung Jrai (Pô Krung Jrai là cách gọi tôn xưng thái tử Chăm Pa là Harijit (R'cam Mal, Chế Mân) lãnh đạo người Rang Đê đánh đuổi Mông Cổ. Krung hay Kurung trong ngôn ngữ Rang Đê và Mã Lai cổ có nghĩa là thủ lĩnh. Dần dần, Pô Krung Jrai hay Pô KLong Jrai phiên âm thành Jarai. Jrai tách khỏi khối bộ tộc Rang Đê để tự nhận mình là Ană Jrai, với ý nghĩa là những đứa con của Vua Chế Mân (Pô Krung Jrai, Pô Klong Jrai hay Ană). Tiểu quốc J'rai (còn gọi là Ala Car P'tao Degar, Dhung Vijaya, Nam Vijaya, Nam Bàn, Nam Phan, Nam Phiên, Chămpa Thượng) là một tiểu quốc cổ của các bộ tộc Nam Đảo ở Tây Nguyên, Việt Nam với bộ tộc nòng cốt là người Gia Rai và người Êđê hình thành từ khoảng cuối thế kỷ 15 và chấm dứt sự tồn tại sau khi phân rã ra thành các bộ tộc độc lập vào khoảng cuối thế kỷ 19. Tiểu quốc này được cai trị dưới quyền các vị tiểu vương mà người Việt gọi là Thủy Xá - Hỏa Xá, tức là Pơtao Apui-Pơtao Ia. Theo tương truyền, các vị vua là hiện thân của thần Gươm Y'Thih (nhân vật trong các truyền thuyết của người người Êđê và Gia Rai. Một tài liệu khác ghi là 20 "đời vua" tiểu quốc J'rai, là người kế tục giữ gươm thần do chàng Y'Thih để lại. Có ý kiến khác cho rằng gươm thần của các Pơtao thực ra là các bảo vật truyền ngôi của hoàng gia Chăm Pa sau khi Lê Thánh Tông tiêu diệt thành Vijaya (Đồ Bàn, Bình Định). Xét về hình thái, tộc người Rhade (Êđê) lui về phía nam và cùng các nhóm Gia Rai thực ra là một dân tộc Rang Đê, hai nhóm tộc người này bị phân ly do nguyên nhân lịch sử mà trong tiếng Gia Rai gọi là thời kỳ Pha ra, nghĩa là cuộc chia ly anh em. Đặc điểm kinh tếNgười Gia Rai sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt nương rẫy; lúa tẻ là cây lương thực chính. Công cụ canh tác của người Gia Rai giản đơn, chủ yếu là con dao chặt cây, phát rừng, cái cuốc xới đất và cây gậy chọc lỗ khi tra hạt giống. Chăn nuôi trâu, bò, lợn, chó, gà phát triển. Xưa kia, người Gia Rai có đàn ngựa khá đông. Người Gia Rai còn thuần dưỡng và nuôi cả voi. Đàn ông thạo đan lát các loại gùi, giỏ, đàn bà giỏi dệt khố, váy, mền đắp, vải may áo cho gia đình. Săn bắn, hái lượm, đánh cá là những hoạt động kinh tế phụ khác có ý nghĩa đáng kể đối với đời sống của họ xưa và nay. Tổ chức cộng đồngNgười Gia Rai sống thành từng làng (plei, plơi hay bôn). Trong làng, ông chủ làng cùng các bô lão có uy tín lớn và giữ vai trò điều hành mọi sinh hoạt tập thể, ai nấy đều nghe và làm theo. Tuỳ từng nhóm Gia Rai, mỗi làng đều có nhà rông. Đây tộc người duy nhất thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo có nhà rông, có thể do ảnh hưởng của cư dân Ba Na thuộc ngữ tộc Môn-Khmer.[8] Có nhóm Arap của người Gia Rai thực ra là người gốc Ba Na đã bị Gia Rai hóa.[8] Đây là tộc người duy nhất ở Tây Nguyên đã có một tổ chức xã hội tiền nhà nước với hai vua (Ptao): vua Nước và vua Lửa,[8] còn được gọi là Tiểu quốc J'rai. Hôn nhân gia đìnhDân tộc Gia Rai theo truyền thống mẫu hệ, phụ nữ tự do lựa chọn người yêu và chủ động việc hôn nhân. Sau lễ cưới, chàng trai về ở nhà vợ, không được thừa kế tài sản. Trái lại, con gái lấy chồng lần lượt tách khỏi cha mẹ ra ở riêng, được phân chia một phần tài sản. Con cái đều theo họ mẹ. Ngoài xã hội, đàn ông đóng vai trò quan trọng hơn, nhưng trong nhà, phụ nữ có ưu thế hơn. Ngày xưa, có tục những người cùng dòng họ (theo phía mẹ), khi chết chôn chung một hố, nay tục này đã giảm. Kèm theo đó là tục nối hôn, nếu người vợ chết đi mà có em gái hoặc chị gái chưa lấy chồng thì người này tiếp tục chung sống với chồng của người đã chết. Nhà cửaCó nơi ở nhà dài, có nơi làm nhà nhỏ, nhưng đều chung tập quán ở nhà sàn, đều theo truyền thống mở cửa chính nhìn về hướng bắc. Trang phụcNgười Gia Rai ít nhiều gần với trang phục của người Êđê, nhưng có nét riêng trong phong cách tạo hình và trang trí. Mặc dù hoa văn trang trí cụ thể các nhóm khác nhau nhưng có thông số chung của tộc người. Trang phục namThường nhật, nam đội khăn, theo lối quấn nhiều vòng trên đầu rồi buông sang một bên tai, hoặc quấn gọn ghẽ như khăn xếp của người Kinh. Khăn màu chàm. Nhìn chung, nam giới Gia Rai đóng khố. Khố này thường ngắn hơn khố ngày hội, là loại vải trắng có kẻ sọc. Ngày lễ họ mang khố màu chàm 410 nhân 29 xentimét (161 in × 11 in), khố loại này được trang trí hoa văn màu trắng, đỏ thành các đường viền ở mép khố, đặc biệt hai đầu với các tua trên nền chàm. Có nhóm ở trần, có nhóm mang áo (loại cộc tay và loại dài tay màu chàm, khoét cổ chui đầu). Loại ngắn tay thường có đường viền chỉ màu trắng bên sườn. Loại dài tay giống phong cách áo dài nam Êđê hay M'Nông. Cũng giống như mọi dân tộc nào biết dệt vải, may trang phục, người Gia Rai chế tác sợi từ quả cây bông và giữ nguyên màu sợi là màu trắng. Việc tạo ra các sắc màu cho sợi là cả một quá trình kinh nghiệm của người Gia Rai. Họ có truyền thống chế "thuốc nhuộm" từ các thảo mộc có trong thiên nhiên mà trong quá trình sinh sống họ đã thuộc tính nết và công dụng của từng loài. Để tạo ra màu đen hay màu xanh thẫm, họ dùng cây chàm. Các bước thao tác được tiến hành như sau: đầu tiên, người Gia Rai đi bắt một loại ốc suối có tên là Brang, đem giã nhỏ, đổ nước vào lọc, lấy thứ nước đó đổ vào ché ngâm khoảng một tháng. Tiếp theo, dùng đọt chuối, vỏ chuối và rễ cây akha krông, akha chót bỏ chung vào cối giã cho thật kỹ, trộn tất cả với Có nét riêng trong phong cách tạo hình và trang trí. Mặc dù hoa văn trang trí cụ thể các nhóm khác nhau nhưng có thông số chung của tộc người. Sợi trắng tự nhiên, rồi bỏ vào ché ngâm. Khi sợi đã ngả màu đen thì đem phơi khô. Nước nhuộm còn lại được cất giữ trong ghè và khi cần lại có thể sử dụng với các bước như vừa mô tả. Màu đỏ trong trang phục của người Gia Rai chiếm một tỉ lệ khá đậm đặc. Trong cuốn Hoa văn các dân tộc Jrai, Bahnar, Nguyễn Từ Chi, một nhà nghiên cứu dân tộc học ở Việt Nam, có giới thiệu:
Trang phục nữPhụ nữ để tóc dài búi sau gáy hoặc quấn gọn trên đỉnh đầu. Áo là loại áo ngắn, chui đầu, phổ biến là kiểu chui đầu cổ "hình thuyền", riêng nhóm Jrai Mơthur lại có kiểu cổ thấp hình chữ V và các loại cổ phổ biến. Trên nền chàm áo được trang trí các sọc hoa văn theo bố cục ngang thân áo ở cổ, vai, ống tay, giữa ngực, gấu áo và hai cổ tay áo. Đó là các sọc màu đỏ xen trắng và vàng trên nền chàm hoặc màu xanh nhạt diệp và màu chàm. Váy là loại váy hở quấn vào thân (kích thước trên dưới 140 cm x 100 cm). Phong cách trang trí trên váy cũng thiên về lối bố cục ngang với các đường sọc màu (như áo là chính). Có nhóm ở Plei Ku với nguyên tắc trên nhưng được mở rộng thành các mảng hoa văn ở giữa thân váy, nửa thân dưới áo và hai ống tay. Trang sức có vòng cổ, vòng tay. Các nhân vật
Chú thích
Tham khảo
|