Kabaena hay Tokotua là một đảo trong biển Flores, Indonesia, ngoài khơi đảo lớn Sulawesi. Hầu hết đảo là một phần của huyện Bombana thuộc tỉnh Đông Nam Sulawesi, còn phần cực nam (Talaga Raya) thuộc huyện Trung Buton. Đảo có diện tích 891,36 km2 và dân số theo điều tra nhân khẩu năm 2010 là 35.558[1] và theo điều tra nhân khẩu năm 2020 là 42.877;[2] ước tính chính thức vào giữa năm 2021 là 43.464.[3]
Hành chính
Đảo gồm có 6 trong số 22 khu của huyện Bombana, và một khu của huyện Trung Buton. Bảy khu này được lập bảng dưới đây với diện tích và dân số của chúng theo điều tra nhân khẩu năm 2010[4] và điều tra nhân khẩu năm 2020,[5] cùng với các ước tính chính thức vào giữa năm 2021.[6] Bảng cũng bao gồm trung tâm hành chính của mỗi khu, số làng hành chính (desa nông thôn và kelurahan đô thị) và các đảo nhỏ ngoài khơi trong mỗi khu và mã bưu điện của khu.
Tên
Diện tích in km2
Dân số điều tra 2010
Dân số điều tra 2020
Dân số ước tính giữa 2021
Trung tâm hành chính
Số làng
Số đảo
Mã bưu chính
Kabaena Utara (Bắc Kabaena)
132,97
3.671
4.031
4.056
Tedubara
6
4
93785
Kabaena Barat (West Kabaena)
39,43
7.492
7.829
7.854
Baliara
5
7
93780
Kabaena
103,57
2.849
3.120
3.139
Teomokole
4
-
93781
Kabaena Selatan (Nam Kabaena)
129,20
2.606
3.325
3.395
Batuawu
4
-
93782
Kabaena Tengah (Trung Kabaena)
275,58
3.254
4.064
4.141
Lengora
7
-
93783
Kabaena Timur (a) (Đông Kabaena)
121,25
6.663
7.566
7.639
Dongkala
7
2
93784
Talaga Raya (b)
89,36
9.023
12.942
13.240
Talaga Satu
7
5
93766
(Tổng cộng đảo Kabaena)
891,36
35.558
42.877
43.464
40
18
Ghi chú: (a) Bao gồm các đảo ngoài khơi Damalawa Besar và Damalawa Kecil. (b) Khu Talaga Raya bao gồm phần phía nam của đảo Kabaena cùng với hai đảo nhỏ
ngoài khơi bờ biển phía đông nam - Talaga Besar (Talaga Lớn) và Talaga Kecil (Talaga Nhỏ); hơn 60% dân số của khu sống ở Talaga Kecil, nơi có 7.836 cư dân
(theo Điều tra dân số năm 2020) trên diện tích 3,29 km2.
Làng
40 làng của đảo (desa nông thôn và kelurahan đô thị) được liệt kê dưới đây cùng với diện tích và dân số của chúng theo điều tra nhân khẩu năm 2020.[7] Sáu trong số 40 làng (được biểu thị bằng dấu hoa thị bên dưới) có địa vị là kelurahan, trong khi 34 làng còn lại là desa.