Hiệp định Paris (1898)
Hiệp định Paris được ký năm 1898 là một thoả thuận mà theo đó thì Tây Ban Nha giao nộp quyền kiểm soát Cuba, Puerto Rico, một phần Tây Ấn (thuộc vùng Caribe), Guam, Philippines cho Hoa Kỳ để lấy một khoản tiền trị giá hai mươi triệu đô la.[1]. Các bên ký kết hiệp định vào ngày 10 tháng 12 năm 1898 sau kết thúc của Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ và có hiệu lực vào ngày 11 tháng 4 năm 1898.[2] Hiệp định này báo hiệu cho sự cáo chung của Đế quốc Tây Ban Nha ở vùng Tây Ấn thuộc Tây Ban Nha và Thái Bình Dương (xem Hiệp định Đức-Tây Ban Nha (1899)) đồng thời ghi dấu sự mở đầu của thế lực cường quốc Hoa Kỳ. Bối cảnhKhoản IV của thoả thuận ngừng bắn giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha ngày 2 tháng 8 năm 1898 ghi: Hoa Kỳ và Tây Ban Nha sẽ chỉ định không qua năm uỷ viên để đàm phán hoà bình và các uỷ viên được chọn phải gặp nhau tại Paris chậm nhất là ngày 1 tháng 10 năm 1898, tiến hành đàm phán và đề ra được một hiệp ước hoà bình có sự phê chuẩn dựa theo các hình thức hiến pháp tương ứng của hai nước.[3] Cơ cấu của phái đoàn Hoa Kỳ hơi bất thường bởi ba trong số các uỷ viên là thượng nghị sĩ (nghĩa là chính họ sẽ bỏ phiếu phê chuẩn những thoả thuận do chính họ đề ra)[4] Phái đoàn Hoa Kỳ bao gồm:
Ngày 16 tháng 9, tổng thống Hoa Kỳ William McKinley gửi lời hướng dẫn bí mật cho các phái viên của mình:
Phái đoàn Tây Ban Nha gồm các nhà ngoại giao Eugenio Montero Ríos, Buenaventura de Abarzuza, José de Garnica, Wenceslao Ramírez de Villa-Urrutia, Rafael Cerero, và một người Pháp là Jules Cambon. Đàm phánPhái đoàn Hoa Kỳ, đứng đầu là cựu Ngoại trưởng William R. Day, đến Paris vào ngày 26 tháng 9 năm 1898. Các cuộc đàm phán được tiến hành trong một dãy phòng tại Bộ Ngoại giao. Tại phiên họp đầu tiên vào ngày 1 tháng 10, người Tây Ban Nha yêu cầu rằng trước khi triển khai đàm phán, thành phố Manila, bị người Hoa Kỳ chiếm vài giờ sau khi Tây Ban Nha và Hoa Kỳ ký kết thỏa thuận hòa bình tại Washington, phải được trả lại cho Tây Ban Nha. Tuy nhiên, vấn đề này bị Hoa Kỳ từ chối xem xét và không được bàn luận gì thêm nữa.[7] Cần chú ý là trong hội nghị này có sự góp mặt của một đại diện cho nền Cộng hòa thứ nhất của Philippines, luật sư Felipe Agoncillo, nhưng hầu như ông này bị hai cường quốc lờ đi. Trong gần một tháng, các cuộc đàm phán chỉ xoay quanh vấn đề Cuba.Đạo luật tu chỉnh Teller đã sửa đổi Lời tuyên chiến của Hoa Kỳ với Tây Ban Nha, khiến Hoa Kỳ không thể sáp nhập Cuba vào lãnh thổ của mình như nước này làm với Puerto Rico, Guam và Philippines.[7] Lúc đầu, Tây Ban Nha từ chối lãnh trách nhiệm cho khoản nợ quốc gia trị giá bốn trăm triệu đô la của Cuba nhưng cuối cùng nước này đành chấp nhận chuyển giao đất nước Cuba cho người bản xứ và nhận nợ về mình. Tây Ban Nha cũng đồng ý nhượng lại Guam và Puerto Rico. Đối với vấn đề Philippines, Tây Ban Nha cố gắng còn nước còn tát, hi vọng chỉ phải nhượng lại Mindanao và quần đảo Sulu. Trưởng đoàn Hoa Kỳ từng có lần khuyến khích mua lại căn cứ hải quân duy nhất ở Manila để làm "tiền đồn".[8] Những người khác đề xuất chỉ giữ lại đảo Luzon. Tuy vậy, trong cuộc thảo luận, ủy ban kết luận rằng nước Hoa Kỳ sẽ gặp rắc rối nếu để Tây Ban Nha giữ lại một phần Philippines vì có khả năng nước này sẽ bán lại phần đất đó cho một cường quốc châu Âu khác.[9] Ngày 25 tháng 11, phái đoàn Hoa Kỳ gửi điện tín cho tổng thống McKinley để xin chỉ thị dứt khoát. Lời hồi đáp của tổng thống là, ông không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc đòi hỏi toàn bộ quần đảo Philippines. Sáng hôm sau, McKinley gửi thêm bức điện khác với nội dung:
Ngày 4 tháng 11, phái đoàn Tây Ban Nha (với sự ủng hộ của thủ tướng Práxedes Mateo Sagasta) chính thức chấp nhận yêu sách của Hoa Kỳ. Viễn cảnh đàm phán thất bại và chiến tranh tái diễn ngày càng hiện lên. Tuy nhiên theo kết quả bầu cử được công bố ngày 8 tháng 11, phe Cộng hoà của McKinley mất ít ghế trong Quốc hội hơn dự đoán lúc trước. Tin tức này đã giúp phái đoàn Hoa Kỳ vững tin hơn, và Frye đã hé lộ kế hoạch mua lại quần đảo Philippines với giá là mười hoặc hai mươi triệu đô la.[11] Sau vài cuộc thảo luận, đoàn Hoa Kỳ đồng ý mức giá hai mươi triệu đô la vào ngày 21 tháng 11, chỉ bằng 1/10 so với giá trị ước tính trong một cuộc thảo luận kín vào tháng 10, và yêu cầu Tây Ban Nha phải cho biết câu trả lời trong vòng hai ngày.[12] Rios giận dữ nói rằng ông ta có thể trả lời ngay cũng được, nhưng đoàn Hoa Kỳ đã bỏ khỏi bàn hội nghị từ trước. Lần kế tiếp khi hai bên gặp lại nhau, nữ hoàng (nhiếp chính) Maria Christina của Tây Ban Nha đã gửi điện và bày tỏ sự đồng ý. Montero Rios trích dẫn lời hồi đáp chính thức như sau:
Những bước cuối cùng để cho ra bản sơ thảo hiệp định được khởi đầu từ ngày 30 tháng 11. Ngày 18 tháng 12 năm 1898, hai bên ký vào bản hiệp định. Bước tiếp theo là phê chuẩn nó ở cấp độ lập pháp. Tranh cãi trong Thượng viện Hoa Kỳ về bản hiệp địnhTrong cuộc tranh luận tại Thượng viện đối với vấn đề phê chuẩn Hiệp định Paris, ý kiến của hai thượng nghị sĩ là George Frisbie Hoar và George Graham Vest đã lấn át những đối thủ khác:
Một số nhân vật theo chủ nghĩa chống bành trướng phát biểu rằng bản hiệp định không chỉ biến Hoa Kỳ thành một đế quốc mà còn vi phạm những nguyên tắc cơ bản nhất của Hiến pháp. Họ cho rằng cả Quốc hội và tổng thống đều không có quyền thông qua các sắc luật để cai trị các dân tộc thuộc địa khác do các nhà làm luật Hoa Kỳ không đại diện cho họ. Trong khi đó, phe ủng hộ Hiệp định nói rằng:
Phe chủ trương bành trướng tuyên bố rằng Hiến pháp Hoa Kỳ chỉ áp dụng cho công dân Hoa Kỳ. Trong khi cuộc tranh cãi vẫn chưa đến hồi kết, Andrew Carnegie và cựu tổng thống Grover Cleveland thỉnh nguyện Thượng viện bác bỏ Hiệp định Paris. Phê chuẩnTại Madrid, Quốc hội Tây Ban Nha bác bỏ hiệp định nhưng nữ hoàng nhiếp chính vẫn ký phê chuẩn nhờ một điều khoản trong hiến pháp Tây Ban Nha.[14] Ngày 6 tháng 2 năm 1899, Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn hiệp định được với tỉ lệ 57/27, tức chỉ dư một phiếu để đạt 2/3 số phiếu cần thiết.[15] Chỉ có hai nghị sĩ đảng Cộng hòa là ông George Frisbie Hoar (tiểu bang Massachusetts) và ông Eugene Pryor Hale (tiểu bang Maine) bỏ phiếu chống lại hiệp định. Điều khoảnHiệp định Paris quy định một nền độc lập cho Cuba nhưng Quốc hội Hoa Kỳ đã đảm bảo hòn đảo này sẽ phải nằm dưới sự kiểm soát của Hoa Kỳ thông qua Đạo luật tu chỉnh Platt. Cụ thể, Tây Ban Nha từ bỏ tất cả các tuyên bố chủ quyền và danh nghĩa đối với Cuba. Sau khi Tây Ban Nha rời khỏi Cuba, Hoa Kỳ sẽ chiếm đảo này, đồng thời đảm trách mọi trách nhiệm pháp lý theo luật pháp quốc tế liên quan đến hành động chiếm đảo. Hiệp định cũng đảm bảo rằng Tây Ban Nha sẽ nhượng lại đảo Puerto Rico và các đảo khác thuộc vùng Tây Ấn, đảo Guam thuộc quần đảo Mariana và quần đảo Philippines (được giới hạn bởi một đường cụ thể) cho Hoa Kỳ. Theo hiệp định Paris, Tây Ban Nha phải:
Năm 1900, Hiệp định Washington làm rõ thông tin chi tiết về việc nhượng lại Philippines.[16] Sau này, Thỏa thuận Mỹ-Anh năm 1930 xác định rõ biên giới giữa Philippines và Bắc Borneo.[17] Chú thích
Xem thêmTham khảo![]() Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Hiệp định Paris (1898).
|
Portal di Ensiklopedia Dunia