Các tỉnh tỉnh và thành phố giáp ranh là: Elazığ về phía tây bắc, Malatya và Adıyaman về phía tây, Şanlıurfa về phía tây nam, Mardin về phía nam, Batman về phía đông, Muş về phía đông, và Bingöl về phía đông bắc.
Diyarbakir cũng là một trung tâm văn hóa và kinh tế lớn ở Thổ Nhĩ Kỳ. Đa số dân số tỉnh là người Kurd,[6] và vì thế, thành phố thường bị xem là một đầu mối xung đột giữa chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ và dân người Kurd của thành phố này.
Kinh tế
Trong lịch sử, Diyarbakır sản xuất lúa mì và vừng. Trong những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Diyarbakır xuất khẩu nho khô, hạnh nhân, và mơ đến châu Âu. Dê Angora đã được nuôi ở đây, và len và mohair đã được xuất khẩu từ Diyarbakır. Các nhà buôn cũng đến từ Ai Cập, Istanbul, và Syria, mua dê và cừu. Khu vực này cũng sản xuất mật ong, nhưng không quá nhiều xuất khẩu, nhưng được sử dụng bởi người dân địa phương. Khu vực này cũng nuôi tằm.
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, Diyarbakır có một ngành công nghiệp đồng hoạt động, với sáu mỏ. Ba mỏ đang hoạt động, với hai thuộc sở hữu của người dân địa phương và các phúc thứ ba thuộc sở hữu của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ. Tenorit là loại khoáng sản đồng chính. Nó được khai thác bằng tay bởi người Kurd. Một phần lớn của quặng đã được xuất khẩu sang Anh. Khu vực này cũng được sản xuất sắt, thạch cao, than đá, phấn, vôi, máy bay phản lực, và thạch anh, nhưng chủ yếu để sử dụng trong nước.
Các huyện
Năm 2012, Thổ Nhĩ Kỳ thông qua luật, công nhận các tỉnh có dân số trên 750.000 người là những đại đô thị, do đó có quyền tự chủ hơn so với cái tỉnh (il) khác. Với luật này, thành phố tỉnh lỵ được tách thành 4 huyện đô thị là Bağlar, Kayapınar, Sur và Yenişehir, cộng với các huyện có sẵn, thành phố được phân thành 17 đơn vị hành chính cấp huyện:
^Gunter, Michael M. (2010). Historical Dictionary of the Kurds. Scarecrow Press. tr. 86. Diyarbakir is often called the unofficial capital of Turkish Kurdistan. Its Kurdish name is Amed.
^King, Diane E. (2013). Kurdistan on the Global Stage: Kinship, Land, and Community in Iraq. Rutgers University Press. tr. 233. Diyarbakir's Kurdish name is "Amed."
^Watts, Nicole F. (2010). Activists in Office: Kurdish Politics and Protest in Turkey (Studies in Modernity and National Identity). Seattle: University of Washington Press. tr. 167. ISBN978-0-295-99050-7.
Canard, M.; Cahen, Cl.; Yinanç, Mükrimin H. & Sourdel-Thomine, J. (1965). "Diyār Bakr". In Lewis, B.; Pellat, Ch. & Schacht, J. (eds.). The Encyclopaedia of Islam, New Edition, Volume II: C–G. Leiden: E. J. Brill. OCLC495469475.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Diyarbakır.