Chi Hương bồ
Chi Hương bồ, chi Cỏ nến, thủy hương, bồn bồn, bồ hoàng, cỏ tăm (tên khoa học: Typha /ˈtaɪfə/) là một chi gồm khoảng trên 30 loài theo The Plant List trong họ Hương bồ. Phân bốCác loài cỏ nến phân bố rộng rãi trên thế giới từ Úc, New Zealand, Malaysia, Indonesia, vùng Tây Thái Bình Dương[3] và ở các khu vực bán cầu Bắc, nhưng chủ yếu mọc trong các vùng đất ngập nước nước ngọt hoặc nước lợ, ít phèn. Ở Việt Nam, cây chủ yếu tập trung ở 3 tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau (thuộc cực nam Nam Bộ). Tuy cũng gặp rải rác ở các vùng đất ngập nước khác của miền tây Nam Bộ như Đồng Tháp, An Giang,... nhưng vì nước nhiều phèn nên cỏ nến khó phát triển. Đặc điểmCác loài trong chi có hoa giống cây nhang, hương hay cây nến. Các nước nói tiếng Anh gọi các loài cỏ nến là cây đuôi mèo (cattails) cũng do hoa của nó giống đuôi con mèo. Nhìn bên ngoài cỏ nến có thân, tán, lá gần giống như cây lác cói dệt chiếu, cao từ 1-2 mét. Cỏ nến ở các nước ôn đới có thể cao đến 7 m. Lá dài và hẹp. Hoa đơn tính, nằm trên cùng một trục trông giống như một cây nến, hoa đực ở trên có lông ngắn màu vàng nâu, hoa cái ở dưới có lông màu nâu nhạt. Quả nhỏ hình thoi. Phấn hoa của các loài cỏ nến được sử dụng trong y học cổ truyền phương Đông với tên là bồ hoàng. Ích lợiDo trong phấn hoa có n-pentacosane, acid béo nên dễ cháy nên người ta cũng thu hái hoa, nghiền ra lấy phấn hoa để sản xuất pháo hoa. Thợ đóng thùng ở châu Âu đặt lá của cây giữa sườn thùng để làm kín không cho rỉ nước. Lông ở hoa cái dùng làm gối đệm. Sinh tháiCác bụi cỏ nến là nơi làm tổ của nhiều loài côn trùng, lưỡng cư và chim. Một số loài động vật như chuột xạ chuyên ăn cỏ nến. Nhiều loài chim lại có thói quen thu nhặt lá cỏ nến khô về làm tổ. Tập đoàn cỏ nến có tác dụng lọc nước, làm giảm các chất thải nhất là chất hữu cơ đổ vào hồ, đầm, từ đó làm giảm khả năng hồ, đầm bị phú dưỡng. T. orientalis và T. latifolia được cho là có khả năng hấp thụ asen trong nước.[4] Rễ cỏ nến có khả năng chống xói mòn rất tốt. Sau một thời gian, cỏ nến có vai trò tích cực trong việc làm khô đầm lầy. Thực phẩmThân rễ các loài này có thể ăn được. Bằng chứng về các hạt tinh bột được bảo tồn trên các đá mài cho thấy, con người đã ăn chúng ở châu Âu cách đây 30.000 năm.[5] Người Nam Bộ bóc lấy phần gốc non cây làm rau hay muối dưa để ăn và gọi là rau bồn bồn. Ở miền nam Nam Bộ, bồn bồn là một loại rau sạch, có giá trị kinh tế cao, được nhiều nông dân trồng để phát triển kinh tế gia đình. Nông dân vùng U Minh Hạ trồng bồn bồn xen với lúa, kết hợp với nuôi cá. Bồn bồn được chế biến thành món dưa ăn với cá rô đồng kho tộ, làm rau trong các món lẩu, xào với tôm, xào với thịt các loại và được các nhà hàng, khách sạn trong miền chế các món dân dã nhưng rất được thực khách ưa chuộng. Ngó và lá non muối làm dưa chua ăn ngon. Có thể lấy ngó non luộc ăn, nấu canh hay xào ăn. Hạt chà sạch vỏ dùng nấu cháo ăn như kê. Rễ dùng để ăn trong những thời gian thiếu lương thực. Y họcPhấn hoa của các loài cỏ nến được sử dụng trong y học phương Đông với tên là bồ hoàng. Bồ hoàng không mùi vị, rất nhẹ, thả vào nước thì nổi lên trên, gặp gió dễ bay. Dùng tay nắm bồ hoàng có cảm giác ẩm, trơn, dễ dính vào ngón tay. Thứ phấn hoa hạt nhỏ, màu vàng óng, tốt hơn thứ màu nâu được dùng sống hay sao đen tuỳ thuộc vào loại bênh được chữa, và công dụng làm thuốc của bồ hoàng cũng rất đa dạng vì chữa được rất nhiều bệnh. Vào tháng 4 – 8 dương lịch, cắt lấy phần trên của bông hoa (phần hoa đực), giã hay rũ lấy phấn hoa, rây loại bỏ tạp chất, phơi hoặc sấy khô, cất trong lọ kín dùng dần. Về mặt dược tính, bồ hoàng có vị ngọt, tính bình, vào 3 kinh can, tỳ và tâm bào. Nếu dùng sống thì có tác dụng hoạt huyết, hành ứ, lợi tiểu chữa hành kinh đau bụng, đau ngực, bụng. Khi sao đen có thể thu sáp cầm máu mạnh hơn, dùng chữa các xuất huyết, thổ huyết, khạc huyết, máu cam... Phấn hoa có tính cầm máu làm ngưng xuất huyết nội và chảy máu bên ngoài. Phấn hoa có thể trộn với mật ong, dùng làm thuốc cho vết thương và chỗ đau, hoặc uống giúp giảm xuất huyết nội như chảy máu cam, chảy máu dạ con hoặc máu trong nước tiểu. Hiện nay phấn hoa cũng được dùng trong chữa trị đau thắt ngực (đau ngực hoặc cánh tay do thiếu oxy đến cơ tim), chữa kinh nguyệt bế sinh đau bụng, thông tiểu tiện (dùng sống), trị ho ra máu, chảy máu cam, đái ra máu (sao đen). Liều dùng 5-8g.
Các loàiTheo Error: unrecognised source.:
Theo Error: unrecognised source.:
Theo:
Chú thích
Liên kết ngoài |
Portal di Ensiklopedia Dunia