1763 - 21 tháng 5 năm 1864 (Cuộc kháng chiến của người Circassian tiếp tục ở các vùng núi cho đến những năm 1870, nhưng chiến tranh chính thức kết thúc vào năm 1864)
Binh lính thiệt mạng: 650,000[13][14]–840,000[15] (Ước tính) Dân thường thiệt mạng: 1,000-5,000[16] (Ước tính) Tổng số người chết: 651,000[17]–845,000[18] (Ước tính)
Binh lính thiệt mạng: 500,000 (Ước tính)[9][10] Dân thường thiệt mạng: 1,000,000+[11] Tổng số người chết: 1,500,000+[10][12][11] (Ước tính)
Trong cuộc diệt chủng Circassia, khoảng 1.500.000[3][4][5][6][7] người Caucasia cao nguyên bản địa đã bị trục xuất chủ yếu đến Đế quốc Ottoman, và một số lượng nhỏ hơn nhiều đến Ba Tư. Một số không xác định trong số những người bị trục xuất đã chết trong quá trình trục xuất.[8]
Chiến tranh Nga-Circassia (tiếng Adygea: Урыс-адыгэ зауэ, đã Latinh hoá: Wurıs-adığə zawə; tiếng Nga: Русско-черкесская война; 1763–1864; còn được gọi là cuộc xâm lược của Nga vào Circassia) là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Circassia[39] bắt đầu từ năm 1763 với việc Circassia chống lại tham vọng thôn tính của Đế quốc Nga.[40] Cuộc chiến kết thúc sau 101 năm với đội quân cuối cùng của Circassia bị đánh bại vào ngày 21 tháng 5 năm 1864, khiến quốc gia này kiệt quệ và thương vong nặng nề cho cả hai bên, đây cũng là cuộc chiến dài nhất mà Nga từng tiến hành trong lịch sử.[41] Chiến tranh kết thúc với việc Đế quốc Nga tiến hành cuộc diệt chủng Circassian[I] nhằm tiêu diệt một cách có hệ thống những người Circassia.[4][47][48] Ước tính có tới 1.500.000 người Circassia (95-97% tổng dân số) bị giết hoặc bị trục xuất đến Đế chế Ottoman (đặc biệt là khu vực Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), hình thành cộng đồng người Circassian ở đây.[49][50][39]
Trong chiến tranh, Đế quốc Nga không công nhận Circassia là một khu vực độc lập và coi đây là vùng đất của Nga dưới sự chiếm đóng của phiến quân, mặc dù không có sự kiểm soát của Nga đối với vùng đất này.[49] Các tướng lĩnh Nga gọi người Circassia không phải bằng tên dân tộc của họ, mà gọi là "người leo núi", "kẻ cướp" hoặc "người cặn bã ở núi".[49][51] Trong cuộc nổ ra như một cuộc xung đột biệt lập, sự bành trướng của Nga qua toàn bộ khu vực đã sớm đẩy một số quốc gia khác ở Kavkaz vào cuộc xung đột. Do đó, cuộc chiến thường được coi là nửa phía tây của Chiến tranh Kavkaz.
Cuộc chiến đã trở thành một chủ đề của chủ nghĩa xét lại lịch sử và là một vấn đề gây tranh cãi do các nguồn tin Nga sau này hầu hết phớt lờ hoặc coi thường cuộc xung đột, các phương tiện truyền thông và quan chức nhà nước Nga còn tuyên bố rằng "cuộc xung đột như vậy chưa bao giờ xảy ra và Circassia tự nguyện gia nhập Nga vào thế kỷ 16".[32]
Chú thích
^Đế chế Ottoman chấp nhận chứa chấp những người Circassian Hồi giáo bị lưu vong trong cuộc diệt chủng Circassian , 800.000–1.500.000 người Circassia[3][4][5][42][43][7] (ít nhất 75% tổng dân số) đã bị đày sang lãnh thổ Ottoman.[40][44] Các số lượng nhỏ hơn khác nhau cuối cùng đến ở Ba Tư láng giềng . Trong quá trình này, lực lượng Nga và Cossack đã sử dụng nhiều phương pháp tàn bạo khác nhau để giải trí và xua đuổi những người Circassian bản địa, chẳng hạn như xé bụng phụ nữ mang thai và bỏ đứa trẻ bên trong, sau đó cho chó ăn.[45] Các tướng lĩnh Nga như Nikolai Yevdokimov và Grigory Zass đã cho phép binh lính của họ hãm hiếp các cô gái Circassia trên 7 tuổi[46]
^Estimate per Berkhamov according to following statements: According to General E. Golovin, between 1838 and 1843, up to 30,000 soldiers died in the Caucasus each year. N.G. gives a figure close to this figure; Chernyshevsky writes that 25,000 Russian soldiers die every year.
^Estimate per Berzage (1996) according to the following statement: "Every year the Caucasian army of 200,000 people lost about 20,000 people. Every 7 years, 120,000 soldiers died in the Caucasus."
^Estimation given by Berkhamov according to following statements: According to General E. Golovin, between 1838 and 1843, up to 30,000 soldiers died in the Caucasus each year. N.G. gives a figure close to this figure; Chernyshevsky writes that 25,000 Russian soldiers die every year.
^Estimate given by Berzage (1996) according to the following statement: "Every year the Caucasian army of 200,000 people lost about 20,000 people. Every 7 years, 120,000 soldiers died in the Caucasus."
^King, The Ghost of Freedom, p73-76. p74:"The hills, forests and uptown villages where highland horsemen were most at home were cleared, rearranged or destroyed... to shift the advantage to the regular army of the empire."... p75:"Into these spaces Russian settlers could be moved or "pacified" highlanders resettled."
^“Kafkas Rus Savaşı”. Cerkesyaorg (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2021.
^Gvosdev 2000, tr. 111-112.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFGvosdev2000 (trợ giúp)
^(bằng tiếng Gruzia) "გურიის სამთავრო" (Principality of Guria). In: ქართული საბჭოთა ენციკლოპედია (Encyclopaedia Georgiana). Vol. 3: p. 314-5. Tbilisi, 1978.
^Лайпанов Билал. (2001). “Ислам в истории и самосознании карачаевского народа”. Ислам в Евразии. Москва: Прогресс-Традиция. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2022.
Henze, Paul B. 1992. "Circassian resistance to Russia." In Marie Bennigsen Broxup, ed., The North Caucasus Barrier: The Russian Advance Towards The Muslim World. London: C Hurst & Co, 266 pp. (Also New York: St. Martin's Press, 252 pp.) Part of it can be found here. Retrieved 11 March 2007.
McCarthy, Justin. 1995. Death and Exile: The Ethnic Cleansing of Ottoman Muslims, 1821–1922. Princeton, New Jersey: Darwin. Chapter 2: Eastern Anatolia and the Caucasus.
Shenfield, Stephen D. 1999. The Circassians: a forgotten genocide?. In Levene, Mark and Penny Roberts, eds., The massacre in history. Oxford and New York: Berghahn Books. Series: War and Genocide; 1. 149–162.
Butkov, P.G. 1869. Materials for New History of the Caucasus 1722–1803.
Jaimoukha, A., The Circassians: A Handbook, London: RoutledgeCurzon; New York; Routledge and Palgrave, 2001.
Khodarkovsky, Michael. 2002. Russia's Steppe Frontier: The Making of a Colonial Empire, 1500–1800. Bloomington: Indiana University Press. Series: Indiana-Michigan series in Russian and East European studies.
Một bộ sưu tập các báo cáo được trích dẫn về cuộc xung đột, được thu thập bởi Circassian World, được dịch bởi Nejan Huvaj và được tìm thấy trên trang này. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2007