Giáo sư Rouse nói rằng: Xenoturbella nên được coi là sinh vật thuộc về nhóm nguyên thủy. “Chúng xếp gần phần gốc của cây tiến hóa và hiện nay đã phát hiện thêm bốn loài mới thay vì chỉ có một trên nhánh cây tiến hóa lớn”.[5]
Khi nghiên cứu về loài Xenoturbella bocki cho thấy có khả năng nó thụ tinh ngoài, với trứng và tinh trùng được phóng từ các lỗ mới trên thành cơ thể. Các giao tử được phóng vào nước thông qua các vết đứt, điều này cũng xảy ra ở các họ hàng gần nhất của Xenoturbella là Acoela và Nemertodermatida. Không có loài nào cho thấy chúng là loài lưỡng tính.[11][12]
Trứng của Xenoturbella rộng 0,2 milimét (0,0079 in), có màu cam nhạt và mờ đục.[13]Phôi mới nở bơi tự do (có xu hướng ở gần mặt nước) và có lông mao. Chúng không có miệng và dường như chúng không kiếm ăn.[13] Loài Neochildia fusca trong phân ngành Acoelomorpha cũng tương tự với Xenoturbella, không kiếm ăn.[13]
Phát sinh loài
Species-level cladogram of the genus Xenoturbella.
G. Haszprunar, R.M. Rieger, P. Schuchert (1991). "Extant 'Problematica' within or near the Metazoa." In: Simonetta, A.M. & Conway Morris, S. (eds.): The Early Evolution of Metazoa and the Significance of Problematic Taxa. Oxford Univ. Press, Cambridge. pp. 99–105
^Tyler, S.; Schilling, S.; Hooge, M.; Bush, L.F. (2006–2016). “Xenoturbella”. Turbellarian taxonomic database. Version 1.7. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2016.
^Raikova, O. I.; Reuter, M.; Jondelius, U.; Gustafsson, M. K. S. (2000). “An immunocytochemical and ultrastructural study of the nervous and muscular systems of Xenoturbella westbladi (Bilateria inc. sed.)”. Zoomorphology. 120 (2): 107–118. doi:10.1007/s004350000028. S2CID19668017.