Shannon nguyên được đặt lườn như tàu khu trục DD-737 vào ngày 14 tháng 2 năm 1944 tại xưởng tàu của hãng Bath Iron Works ở Bath, Maine, và được hạ thủy vào ngày 24 tháng 6 năm 1944; được đỡ đầu bởi bà Harold D. Shannon, vợ góa Đại tá Shannon. Nó được xếp lại lớp như một tàu khu trục rải mìn với ký hiệu lườn DM-25 vào ngày 19 tháng 7 năm 1944 trước khi nhập biên chế vào ngày 8 tháng 9 năm 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân E. L. Foster.
Vào ngày 27 tháng 1, 1945, trong vai trò soái hạm của Đội tàu rải mìn 7, vốn còn bao gồm các tàu chị em Thomas E. Fraser (DM-24) và Harry F. Bauer (DM-26), và là một đơn vị thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 51, Shannon khởi hành từ Trân Châu Cảng để đi Iwo Jima ngang qua Eniwetok và Saipan. Đi đến mục tiêu vào ngày 19 tháng 2, nó hoạt động tuần tra chống tàu ngầm trong khi binh lính Thủy quân Lục chiếntấn công đổ bộ lên hòn đảo này. Đến xế trưa, nó chuyển sang nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực cho cuộc chiến trên bộ, và trong năm ngày tiếp theo đã luân phiên giữa các nhiệm vụ này trước khi quay trở lại Saipan hộ tống các tàu vận tải chuyển lực lượng tiếp viện và hàng tiếp liệu đến hòn đảo.
Shannon đi đến ngoài khơi Kerama Retto, một nhóm đảo về phía Tây Okinawa, vào ngày 25 tháng 3, nơi nó bảo vệ cho hoạt động của các tàu quét mìn và các đội phá hoại dưới nước (UDT) để dọn đường cho cuộc đổ bộ lên Okinawa. Vào Ngày D 1 tháng 4, khi binh lính đổ bộ lên bãi biển Hagushi, con tàu tuần tra về phía Đông Kerama Retto; rồi nó di chuyển đến bờ biển phía Nam Okinawa để bảo vệ cho cuộc đổ bộ nghi binh tại đây. Nó tiếp tục vai trò hộ tống bảo vệ cho đến ngày 4 tháng 4, khi nó hộ tống các tàu vận tải rỗng rút lui về tuyến sau. Nó quay trở lại khu vực Okinawa vào ngày 15 tháng 4, tiếp nối nhiệm vụ tuần tra bảo vệ, rồi đến ngày 21 tháng 4 đã tiến hành tuần tra chống xâm nhập tại khu vực Đông Nam Okinawa, luân phiên nhiệm vụ này với vai trò cột mốc radar canh phòng cho đến giữa tháng 6. Trong giai đoạn này nó cũng bảo vệ cho hoạt động của các tàu quét mìn tại khu vực Tori Shima vào ngày 11 tháng 5, và khu vực Iheya Shima từ ngày 30 tháng 5 đến ngày 3 tháng 6.
Sau khi chiến tranh kết thúc tại Thái Bình Dương, Shannon cùng các đơn vị quét mìn di chuyển đến vùng biển Hoàng Hải để rà quét các bãi thủy lôi ngoài khơi Triều Tiên. Nó lên đường đi Nhật Bản vào ngày 7 tháng 9, nơi nó tiếp tục hỗ trợ những hoạt động quét mìn các tuyến luồng ra vào các cảng Nhật Bản cho đến tháng 11, khi nó lên đường quay trở về Hoa Kỳ. Sau các chặng dừng tại quần đảo Hawaii và vùng bờ Tây, nó tiếp tục băng qua kênh đào Panama để gia nhập Hạm đội Đại Tây Dương.
Sau chiến tranh
Đi đến vịnh Chesapeake vào tháng 4, 1946, Shannon hoạt động với biên chế rút gọn dưới quyền Tư lệnh Khu trục Đại Tây Dương và Tư lệnh Tàu ngầm Đại Tây Dương cho đến tháng 6, khi nó được điều đến Charleston, South Carolina để hoạt động cùng Đội rải mìn 2. Vào mùa Hè năm 1947, nó tháp tùng tàu sân bay hộ tốngPalau (CVE-122) cho một chuyến viếng thăm thiện chí đến Liberia. Sau khi được bảo trì, con tàu bị bỏ không tại Charleston từ tháng 11, 1947 đến tháng 8, 1948, rồi hoạt động trở lại cùng Lực lượng Rải mìn Hạm đội Đại Tây Dương trong bảy năm tiếp theo.
Trong giai đoạn này, Shannon tham gia nhiều cuộc thực tập và tập trận cùng hạm đội, tiến hành những chuyến đi thực tập cho học viên sĩ quan, và đã một lần được bố trí sang Địa Trung Hải từ tháng 9, 1950 đến tháng 1, 1951. Được cho ngừng hoạt động vào năm 1955, nó gia nhập Đội Charleston, Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương từ ngày 7 tháng 7, và chính thức xuất biên chế vào ngày 24 tháng 10, 1955.
Đang khi trong thành phần dự bị, Shannon được xếp lại lớp như một tàu rải mìn nhanh với ký hiệu lườn MMD-25 vào ngày 14 tháng 8, 1968, nhưng tiếp tục bị bỏ không cho đến khi tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 11, 1970. Con tàu sau đó được bán cho hãng Boston Metals Company tại Baltimore, Maryland, và bắt đầu được tháo dỡ từ tháng 5, 1973.