USS Boise (CL-47)

USS Boise moored at Harbor
Tàu tuần dương USS Boise neo đậu trong cảng, khoảng năm 1938-1939
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Boise
Đặt tên theo Boise, Idaho
Xưởng đóng tàu Newport News Shipbuilding and Dry Dock Company, Newport News, Virginia
Đặt lườn 1 tháng 4 năm 1935
Hạ thủy 3 tháng 12 năm 1936
Người đỡ đầu cô Salome Clark
Nhập biên chế 12 tháng 8 năm 1938
Xuất biên chế 1 tháng 7 năm 1946
Danh hiệu và phong tặng 11 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán cho Argentina, 11 tháng 1 năm 1951
Argentina
Tên gọi Nueve de Julio (C-5)
Đặt tên theo 9 tháng 7, ngày Độc lập của Argentina
Trưng dụng 11 tháng 1 năm 1951
Nhập biên chế 11 tháng 3 năm 1952
Xuất biên chế 1979
Số phận Bán để tháo dỡ tháng 8 năm 1981
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp Brooklyn
Kiểu tàu Tàu tuần dương hạng nhẹ
Trọng tải choán nước
  • 9.767 tấn Anh (9.924 t) (tiêu chuẩn);
  • 12.207 tấn Anh (12.403 t) (đầy tải)[1]
Chiều dài
  • 600 ft (180 m) (mực nước);
  • 606 ft (185 m) (chung)
Sườn ngang 62 ft (19 m)
Mớn nước 23 ft (7,0 m)
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
  • 4 × turbine hơi nước hộp số Parsons;
  • 4 × trục
Tốc độ 32,5 hải lý trên giờ (60,2 km/h; 37,4 mph)
Tầm xa 10.000 nmi (18.520 km; 11.510 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 868
Vũ khí
Bọc giáp
  • đai giáp:
    • 5 in (130 mm) tại phòng động cơ;
    • 2 in (51 mm) tại hầm đạn;
  • sàn tàu: 2 in (51 mm);
  • bệ tháp pháo: 6 in (150 mm);
  • tháp pháo:
    • 6,5 in (170 mm) mặt trước;
    • 1,25 in (32 mm) mặt hông;
    • 2 in (51 mm) nóc;
  • tháp chỉ huy: 127 mm (5 inch)
Máy bay mang theo 4 × thủy phi cơ
Hệ thống phóng máy bay 2 × máy phóng

USS Boise (CL-47) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Brooklyn của Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ mang cái tên này, được đặt theo tên thành phố Boise, thủ phủ tiểu bang Idaho. Con tàu từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và tham gia nhiều chiến dịch tại Mặt trận Thái Bình Dương cũng như tại Địa Trung Hải. Sau chiến tranh, nó được cho xuất biên chế vào năm 1946, rồi được bán cho Argentina vào năm 1951, và được đổi tên thành Nueve de Julio. Nó tiếp tục phục vụ trong Hải quân Argentine cho đến năm 1978, khi nó được cho ngừng hoạt động và kéo đến Nhật Bản để tháo dỡ. Boise được tặng thưởng mười một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo

Boise được đặt lườn tại hãng Newport News Shipbuilding and Dry Dock CompanyNewport News, Virginia vào ngày 1 tháng 4 năm 1935. Con tàu được hạ thủy vào ngày 3 tháng 12 năm 1936; được đỡ đầu bởi cô Salome Clark, con gái ngài Barzilla W. Clark, Thống đốc tiểu bang Idaho; và được cho nhập biên chế vào ngày 12 tháng 8 năm 1938 dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng, Đại tá Hải quân Benjamin Vaughan McCandlish.[2][3]

Lịch sử hoạt động

Những năm giữa hai cuộc thế chiến

Vào tháng 2 năm 1939, sau chuyến đi chạy thử máy đến Monrovia, LiberiaCape Town, Nam Phi, Boise gia nhập Hải đội Tuần dương 9 thuộc Lực lượng Chiến trận tại San Pedro, California. Cho đến tháng 11 năm 1941, nó luân phiên hoạt động ngoài khơi bờ Tây Hoa Kỳ và tại vùng biển Hawaii. Sau đó nó hộ tống một đoàn tàu vận tải đi Manila thuộc quần đảo Philippine, đến nơi vào ngày 4 tháng 12.[3]

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Khi chiến tranh nổ ra tại Philippines vào ngày 8 tháng 12 năm 1941, Boise đang ở ngoài khơi đảo Cebu. Nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 5 tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, nhưng vào ngày 21 tháng 1 năm 1942, nó va phải một dãi đá ngầm không có trong hải đồ tại eo biển Sape, và bị buộc phải rút lui về Colombo, Ceylon; rồi đến Bombay, Ấn Độ; và cuối cùng là về Xưởng hải quân Mare Island để sửa chữa.[3]

Sau khi việc sửa chữa hoàn tất, Boise lên đường vào ngày 22 tháng 6 năm 1942 để hộ tống một đoàn tàu vận tải đi đến Auckland, New Zealand. Sau đó nó quay trở về Trân Châu Cảng, và từ ngày 31 tháng 7 đến ngày 10 tháng 8 đã thực hiện một chuyến đi đánh phá tại vùng biển Nhật Bản như một đòn nghi binh thu hút sự chú ý của đối phương khỏi hoạt động chủ yếu tại Guadalcanal. Trong tháng 8, nó hộ tống một đoàn tàu vận tải đi đến FijiNew Hebrides.[3]

Từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 9, nó hỗ trợ cho việc đổ bộ tăng cường lực lượng Thủy quân Lục chiến lên Guadalcanal. Trong trận chiến mũi Esperance, nó bị hỏa lực pháo của một tàu tuần dương Nhật Bản bắn trúng hầm đạn, làm thiệt mạng tất cả mọi người gần các tháp pháo số 1, 2 và 3 với tổng cộng 107 người tử trận. Dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá "Mike" Moran, người sau đó được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Hải quân do sự chỉ huy trong trận này, Boise quay trở về Xưởng hải quân Philadelphia, nơi nó được sửa chữa từ ngày 19 tháng 11 năm 1942 đến ngày 20 tháng 3 năm 1943.[3]

Boise khởi hành vào ngày 8 tháng 6 năm 1943 hướng sang Địa Trung Hải, đi đến ngoài khơi Algiers, Algeria vào ngày 21 tháng 6. Từ ngày 10 tháng 7 đến ngày 18 tháng 8, nó hoạt động trong vai trò hộ tống và bắn pháo hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Sicilia. Đến tháng 9, nó tham gia các cuộc đổ bộ lên chính bán đảo Ý ở Taranto vào ngày 910 tháng 9Salerno vào ngày 1219 tháng 9. Chiếc tàu tuần dương quay trở về thành phố New York vào ngày 15 tháng 11, rồi một lần nữa hướng sang khu vực Nam Thái Bình Dương, đi đến vịnh Milne, New Guinea vào ngày 31 tháng 12.[3]

Boise đang nả pháo xuống các vị trí tại New Guinea

Từ tháng 1 đến tháng 9 năm 1944, Boise tham gia các hoạt động bắn phá và yểm trợ đổ bộ dọc theo bờ biển phía Bắc New Guinea. Sau đó, chiếc tàu tuần dương di chuyển lên phía Bắc khi mặt trận chuyển đến quần đảo Philippine, và nó đã tham gia các hoạt động tại khu vực này cho đến tháng 5 năm 1945, kể cả trận Leyte ngày 2024 tháng 10trận chiến eo biển Surigao trong khuôn khổ cuộc Hải chiến vịnh Leyte vào ngày 25 tháng 10 năm 1944.[3]

Từ ngày 3 đến ngày 16 tháng 6 năm 1945, nó đưa Đại tướng Douglas MacArthur thực hiện một hành trình kéo dài 3.500 nmi (6.500 km) suốt khu vực Trung và Nam Philippine cho đến vịnh Brunei, Borneo, rồi lên đường quay về San Pedro, California, đến nơi vào ngày 7 tháng 7. Sau khi trải qua một đợt đại tu rồi huấn luyện cho đến tháng 10, Boise lên đường đi sang vùng bờ Đông vào ngày 3 tháng 10, đến New York vào ngày 20 tháng 10. Chiếc tàu tuần dương tiếp tục ở lại đây cho đến khi được cho xuất biên chế vào ngày 1 tháng 7 năm 1946.[2][3]

Phục vụ cùng Hải quân Argentine

Ngày 11 tháng 1 năm 1951, Boise, cùng với con tàu chị em Phoenix, được bán cho Argentina, nơi chúng được cho nhập biên chế với tên gọi tương ứng là Nueve de Julio (Ngày 9 tháng 7, ngày Độc lập của Argentina) và Diecisiete de Octubre (sau được đổi tên thành General Belgrano).[3]

Trong những năm phục vụ như một tàu chiến Argentine, nó từng tham gia vào cái gọi là cuộc Cách mạng Tự do (Revolución Libertadora), bắn phá các kho chứa dầu và căn cứ quân sự chung quanh thành phố dọc theo bờ biển Mar del Plata vào ngày 19 tháng 9 năm 1955. Nó vô tình bị chiếc tàu chị em ARA General Belgrano húc phải đang khi tập trận vào năm 1956, đưa đến việc hư hại cho cả hai chiếc tàu tuần dương.[4]

Nueve de Julio tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Argentine cho đến năm 1978, khi nó được cho ngừng hoạt động và kéo đến Nhật Bản để tháo dỡ.[5]

Phần thưởng

Boise được tặng thưởng 11 Ngôi sao chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.[2][3]

Bronze star
Silver star
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Bronze star
Dãi băng Hoạt động Tác chiến Huân chương Phục vụ Phòng vệ Hoa Kỳ
với 1 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ
Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 9 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến dịch Châu Âu-Châu Phi-Trung Đông
với 2 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II
Đơn vị Tuyên dương Tổng thống Philippine Huân chương Phòng thủ Philippine
(Philippine)
Huân chương Giải phóng Philippine
(Philippine)

Tham khảo

Chú thích

  1. ^ Whitley 1996, tr. 248.
  2. ^ a b c Yarnall, Paul (12 tháng 4 năm 2020). “USS Boise (CL 47)”. NavSource.org. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2021.
  3. ^ a b c d e f g h i j Naval Historical Center. Boise I (CL-47). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  4. ^ Historia de los Cruceros Argentinos (tiếng Tây Ban Nha)
  5. ^ Bonner 1996, tr. 41

Thư mục

Đọc thêm

Liên kết ngoài