U-142 (tàu ngầm Đức) (1940)
U-142 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II thuộc phân lớp Type IID được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên chúng hầu như chỉ đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, U-142 đã thực hiện ba chuyến tuần tra tại khu vực biển Baltic, nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào. Đến tháng 10, 1941, U-142 được rút về làm nhiệm vụ huấn luyện cho đến hết chiến tranh, và cuối cùng bị đánh đắm tại Wilhelmshaven trong kế hoạch Regenbogen vào tháng 5, 1945. Thiết kế và chế tạoPhân lớp Type IID là một phiên bản mở rộng của Type IIC dẫn trước. Chúng có trọng lượng choán nước 314 t (309 tấn Anh) khi nổi và 364 t (358 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[2] Chúng có chiều dài chung 43,97 m (144 ft 3 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 29,80 m (97 ft 9 in), mạn tàu rộng 4,92 m (16 ft 2 in), chiều cao 8,40 m (27 ft 7 in) và mớn nước 3,93 m (12 ft 11 in).[2] Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 460 mã lực mét (340 kW; 450 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft).[2] Chúng đạt được tốc độ tối đa 12,7 kn (23,5 km/h) trên mặt nước và 7,4 kn (13,7 km/h) khi lặn,[2] với tầm hoạt động tối đa 3.800 nmi (7.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35–42 nmi (65–78 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[2] Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[2] U-142 được đặt hàng vào ngày 25 tháng 9, 1939.[1] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 12 tháng 12, 1939,[1] hạ thủy vào ngày 24 tháng 7, 1940,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 4 tháng 9, 1940[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Asmus Nicolai Clausen.[1] Lịch sử hoạt động1941Chuyến tuần tra thứ nhấtU-142 khởi hành từ Gotenhafen (nay là Gdynia, Ba Lan) vào ngày 21 tháng 6, 1941[3] cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh trong khu vực biển Baltic, trong bối cảnh cuộc xung đột với Liên Xô sắp bắt đầu. Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Oxhöft (ngoại ô của Gdynia tại Ba Lan) vào ngày 12 tháng 7.[3] Chuyến tuần tra thứ haiTrong chuyến tuần tra thứ hai vẫn tại khu vực biển Baltic, U-139 xuất phát từ Oxhöft vào ngày 25 tháng 7 và kết thúc tại Stormälö thuộc Tây Nam Phần Lan vào ngày 9 tháng 8. [3] Chuyến tuần tra thứ baU-142 xuất phát từ Stormälö vào ngày 28 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ ba, tiếp tục tại khu vực biển Baltic. Trong cả ba chuyến tuần tra nó không đánh chìm được mục tiêu nào. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại cảng Gotenhafen vào ngày 31 tháng 8. [3] 1942 - 1945U-142 được rút về làm nhiệm vụ huấn luyện từ tháng 9, 1941 cho đến khi chiến tranh kết thúc. Vào giai đoạn kết thúc xung đột, theo dự định của kế hoạch Regenbogen, U-142 bị đánh đắm tại âu tàu Raeder ở Wilhelmshaven vào ngày 5 tháng 5, 1945 để tránh lọt vào tay lực lượng Đồng Minh.[1] Xác tàu đắm được trục vớt và tháo dỡ sau chiến tranh.[1] Tham khảoChú thíchThư mục
Liên kết ngoài
|