Tập đoàn quân 17 (Liên Xô)
Tập đoàn quân 17 là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô. Được thành lập vào năm 1940, Tập đoàn quân phục vụ ở Viễn Đông trong Thế chiến thứ hai và chiến đấu trong chiến dịch Mãn Châu tháng 8 năm 1945. Đơn vị bị giải tán vào giữa năm 1946. Lịch sửTập đoàn quân 17 được thành lập từ Nhóm Tập đoàn quân số 1 của Quân khu Transbaikal vào ngày 21 tháng 6 năm 1940.[1] Từ năm 1941 đến năm 1945, đơn vị đảm nhận nhiệm vụ phòng thủ chung, bao gồm cả bên trong biên giới Mông Cổ. Vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, Tập đoàn quân bao gồm:
Vào ngày 15 tháng 9, Quân khu Transbaikal trở thành Phương diện quân Transbaikal. [3] Trong chiến dịch Mãn Châu của Liên Xô, Tập đoàn quân đội được nhập biên chế Phương diện quân Transbaikal. Đêm ngày 9 tháng 8 năm 1945, không có pháo binh và không quân yểm trợ, Tập đoàn quân 17 bắt đầu cuộc tấn công. Vào cuối ngày, các lực lượng chính của đơn vị đã tiến được 50 km, có nơi tiến xa gần 70 dặm, tiến đến được khu vực hồ Tabun-Nur. Vào ngày thứ ba của Chiến dịch Khingan-Mukden, hiệp đồng cùng với Tập đoàn cơ giới Liên Xô-Mông Cổ, các mũi nhọn của Tập đoàn quân 17 đã tiếp cận phía tây nam của Đại Hưng An. Trong những ngày sau đó của chiến dịch, Tập đoàn quân đã vượt qua tuyến phòng thủ của quân Nhật, và đẩy lùi các cuộc phản công ở khu vực Lâm Tây. Cuối ngày 14 tháng 8 năm 1945, Tập đoàn quân 17 đã chiếm được khu vực Đại Sơn - Tszinpen. Ngày 16 tháng 8, Udanchen thất thủ. Cuối tháng 8 năm 1945, cùng với tập đoàn kỵ binh cơ giới chủ lực của Phương diện quân, Tập đoàn quân 17 đã tiến đến khu vực Lâm Viên, và một trong các sư đoàn của đơn vị đã ở trên bờ biển Vịnh Liêu Đông gần Sơn Hải Quan. Cũng tại khu vực này vào ngày 31 tháng 8 năm 1945, Tập đoàn quân 17 kết thúc các chiến dịch.[3] Trong chiến dịch Mãn Châu, Tập đoàn quân 17 bao gồm:
Sau khi chiến tranh với Nhật Bản kết thúc, Tập đoàn quân trở thành một phần của Quân khu Transbaikal-Amur (được hình thành từ Phương diện quân Transbaikal) vào ngày 10 tháng 9 năm 1945, và bị giải tán từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1946.[3][5] Danh sách tư lệnhCác tư lệnh trong chiến tranh:[3][6] Các chỉ huy
Thành viên hội đồng quân sự
Tham mưu trưởng
Tham khảoChú thích
Thư mục
|