Samari(III) sunfat |
---|
Mẫu samari(III) sunfat |
Tên khác | Samari(III) sunfat(VI) |
---|
|
|
Số CAS | 13465-58-2 |
---|
PubChem | 166884 |
---|
Số EINECS | 626-078-1 |
---|
Ảnh Jmol-3D | ảnh |
---|
SMILES |
[O-]S(=O)(=O)[O-].[O-]S(=O)(=O)[O-].[O-]S(=O)(=O)[O-].[Sm+3].[Sm+3]
|
---|
InChI |
- 1S/3H2O4S.2Sm/c3*1-5(2,3)4;;/h3*(H2,1,2,3,4);;/q;;;2*+3/p-6
|
---|
ChemSpider | 146014 |
---|
|
Công thức phân tử | Sm2(SO4)3 |
---|
Khối lượng mol | 588,8908 g/mol (khan) 733,01304 g/mol (8 nước) |
---|
Bề ngoài | tinh thể vàng |
---|
Khối lượng riêng | 3,05 g/cm³ (8 nước)[1] |
---|
Điểm nóng chảy | |
---|
Điểm sôi | |
---|
Độ hòa tan trong nước | 2,67 g/100 mL (2 ℃) 1,99 g/100 mL (40 ℃) (khan), xem thêm bảng độ tan |
---|
Độ hòa tan | tạo phức với hydrazin |
---|
|
|
Anion khác | Samari(III) selenat |
---|
Cation khác | Neodymi(III) sunfat Prometi(III) sunfat Europi(III) sunfat |
---|
|
Trừ khi có ghi chú khác, dữ liệu được cung cấp cho các vật liệu trong trạng thái tiêu chuẩn của chúng (ở 25 °C [77 °F], 100 kPa).
|
Samari(III) sunfat là một hợp chất vô cơ, là muối của kim loại samari và axit sunfuric có công thức hóa học Sm2(SO4)3, tinh thể màu vàng nhạt, tan trong nước, tạo thành tinh thể ngậm nước.
Điều chế
Sự hòa tan của samari(III) oxit trong axit sunfuric sẽ tạo ra muối:
Tính chất vật lý
Samari(III) sunfat tạo thành các tinh thể màu vàng nhạt.
Nó hòa tan tốt trong nước với khả năng bị thủy phân cation yếu.
Nó tạo thành octahydrat Sm2(SO4)3·8H2O.
Tính chất hóa học
- Muối khan thu được bằng cách đun nóng octahydrat:
- Muối bị phân hủy khi đun nóng mạnh:
Hợp chất khác
Sm2(SO4)3 còn tạo một số hợp chất với N2H4, như Sm2(SO4)3·12N2H4·4H2O là tinh thể vàng, tan ít trong nước, không tan trong benzen và toluen, d20 ℃ = 2,82 g/cm³.[2]
Tham khảo
- ^ Handbook… (Pierre Villars, Karin Cenzual, Roman Gladyshevskii; Walter de Gruyter GmbH & Co KG, 18 thg 12, 2013 - 1729 trang), trang 1105. Truy cập 19 tháng 3 năm 2021.
- ^ Russian Journal of Inorganic Chemistry, Tập 19,Phần 1 (British Library Lending Division with the cooperation of the Royal Society of Chemistry, 1974), trang 151. Truy cập 19 tháng 3 năm 2021.