Phép ngập vi phân có tính cục bộ: nó không nhất thiết phải là một toàn ánh. Trong khi đó, một phép ngập tô-pô luôn là một toàn ánh.
Định nghĩa
Gọi M và N là các đa tạp vi phân và là một ánh xạ khả vi giữa chúng. Ánh xạ f là một phép ngập tại một điểm nếu vi phân của nó
là một toàn ánhtuyến tính.[2] Trong trường hợp này p được gọi là điểm chính quy của ánh xạ f. Nếu không phải là một điểm chính quy, p được gọi là một điểm cực hạn. Một điểm là giá trị chính quy của f nếu mọi điểm trong nghịch ảnh đều là điểm chính quy. Một ánh xạ khả vi f được gọi là một phép ngập nếu nó là một phép ngập tại mọi điểm .
Tương đương, f là một phép ngập nếu vi phân của nó có hạng không đổi bằng số chiều của N
Định lý ngập
Cho trước một phép ngập giữa các đa tạp trơn , các thớ của , ký hiệu , có thể được trang bị một cấu trúc vi phân. Điều này kết hợp với định lý nhúng Whitney ngụ ý rằng mọi đa tạp trơn đều là thớ của một ánh xạ trơn .
Ví dụ, xét được cho bởi Ma trận Jacobi
Ma trận này có hạng tối đa tại mọi điểm trừ . Ngoài ra, các thớ
là tập hợp rỗng với và là một điểm với . Do đó, ta có một phép ngập và các thớ là các đa tạp con hai chiều với .
Ví dụ
Mọi phép chiếu đều là một phép ngập.
Một vi phôi địa phương là một phép ngập.
Một phép ngập Riemann là một phép ngập bảo toán metric Riemann.
Một phép ngập tô-pô là một toàn ánh liên tụcf: M → N sao cho với mọi p thuộc M, tồn tại các bản đồ liên tục ψ tại p và φ tại f(p) sao cho ánh xạ ψ−1 ∘ f ∘ φ bằng với phép chiếu từ Rm đến Rn, với m = dim(M) ≥ n = dim(N).[3]
Gallot, Sylvestre; Hulin, Dominique; Lafontaine, Jacques (2004). Riemannian Geometry (ấn bản thứ 3). Berlin, New York: Springer-Verlag. ISBN978-3-540-20493-0.