Minh Hy Tông
Minh Hy Tông (chữ Hán: 明熹宗; 23 tháng 12 năm 1605 – 30 tháng 9 năm 1627), là vị hoàng đế thứ 16 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1620 đến năm 1627. Trong thời gian tại vị, ông chỉ dùng một niên hiệu là Thiên Khải (天啟), nên còn được gọi là Thiên Khải Đế (天啟帝). Lên ngôi khi gần 16 tuổi, triều đại của Hy Tông trong vòng 7 năm đã bị lũng đoạn bởi hoạn quan Ngụy Trung Hiền và bè phái của ông ta, khiến chính sự phân ly bởi các cuộc tranh đấu đảng phái giữa Yêm đảng (閹黨) và Đông Lâm đảng (東林黨). Ngoài ra, do không biết chữ, bản thân Hy Tông cũng bỏ mặc triều chính. Điều này khiến cho nhà Minh, vốn đã bắt đầu suy yếu từ thời Minh Thần Tông, càng lún sâu vào khủng hoảng. Tiểu sửMinh Hy Tông tên thật là Chu Do Hiệu (朱由校), sinh ngày 23 tháng 12 năm 1605 dưới thời gian trị vì của ông nội là Minh Thần Tông Chu Dực Quân. Ông là con trai trưởng của Minh Quang Tông Chu Thường Lạc, mẹ là Vương tài nhân, khi đấy đang là tần thiếp của cha ông lúc còn ở ngôi Thái tử. Năm 1620, ngày 28 tháng 8, Quang Tông lên ngôi chưa được một tháng thì băng hà vào ngày 26 tháng 9, chỉ kịp đặt niên hiệu, còn chưa kịp dâng thụy cho Thái hậu và sắc phong phi tần, hoàng tử. Ngày 22 tháng 1 năm 1621, hoàng tử Chu Do Hiệu chính thức đăng vị, lấy niên hiệu Thiên Khải (天啟).[2] Ngụy Trung Hiền can chínhKhi vua cha qua đời, Chu Do Hiệu không hề biểu lộ sự đau buồn gì cả, ông lên ngôi mà không có một sự chuẩn bị gì. Hành động của ông đối với người cha quá cố của mình bị các sử gia đời sau cho là bất hiếu. Khi Minh Hy Tông đăng cơ được ít ngày, dưỡng mẫu của ông là Lý tuyển thị lợi dụng việc ông còn ít tuổi và không có năng lực, lập tức di dời đến Càn Thanh cung, mưu đồ Thùy liêm thính chánh để can dự vào triều chính. Đông Lâm đảng đại thần gồm Tả Quang Đẩu (左光斗) và Dương Liên (楊漣) ra sức phản đối, ép Lý Tuyển thị phải dời từ Càn Thanh cung đến Nhân Thọ cung, sử gọi là Di cung án (移宮案). Sau sự kiện, Hy Tông đề bạt các đại thần Đông Lâm đảng, tuy nhiên lại cất nhắc thêm Thị nội theo hầu Lý Tuyển thị khi trước là Ngụy Trung Hiền, cho giữ chức Bỉnh bút thái giám (秉筆太監) thuộc Tư lễ giám (司禮監). Nhân đó, họ Ngụy liên kết với cùng với người vú nuôi của Hy Tông là Khách Thị (客氏), do công nuôi dưỡng được phong làm Phụng Thánh phu nhân (奉聖夫人). Nhờ đó, hai người họ cùng cấu kết với nhau chia sẻ sự ảnh hưởng lên Hoàng đế. Tuổi thơ của Minh Hy Tông gắn liền với nhũ mẫu Khách thị nên việc nảy sinh tình cảm giữa hai người cũng không phải là chuyện gì khó tưởng tượng. Tuy nhiên, tình cảm giữa Khách thị và Minh Hy Tông không chỉ đơn thuần là tình thương như con dành cho mẹ mà là của những cặp tình nhân đối đãi với nhau. Thậm chí, các nhà sử gia còn khẳng định rằng chắc chắn giữa Minh Hy Tông và Khách thị có chuyện ân ái chăn gối. Bởi lẽ, khi Minh Hy Tông lên ngôi vua, Khách thị đã trên dưới 40 tuổi nhưng bà vẫn đẹp tựa mỹ nhân 28 tuổi, khiến Hy Tông đang độ tuổi xuân thì mê mẩn. Hơn nữa, dù là gái góa chồng nhưng vốn xinh đẹp lẳng lơ nên chưa bao giờ Khách thị tự coi mình là nhũ mẫu của Hy Tông. Theo sử liệu ghi chép, mỗi sáng sớm, Khách thị đều tới tẩm cung của Hy Tông để hầu hạ vua cho tới nửa đêm mới về. Chính vì có tình ý với nhũ mẫu nên khi Minh Hy Tông lên ngôi Hoàng đế chưa được bao lâu, ông đã phong cho Khách thị làm Phụng Thánh phu nhân. Hơn nữa, vào mỗi dịp sinh nhật Khách thị, Minh Hy Tông đều đích thân tới chúc phúc không khác gì mẹ ruột. Không chỉ vậy, còn có giai thoại nói rằng, Khách thị đã dùng thuốc hạ độc hoàng đế. Loại thuốc này khi ăn xong sẽ khiến nam giới sung mãn và có nhu cầu giường chiếu nhiều hơn. Cũng chính vì vậy mà sức khỏe của Hy Tông trở nên suy kiệt, dù khác vua cha, ông không hoàn toàn qua đời do sốc thuốc. Minh Hy Tông hoàn toàn tin tưởng và giao hầu hết việc triều chính cho Ngụy Trung Hiền, hoàn toàn khoanh tay rũ áo, chỉ biết suốt ngày chơi bời, chìm đắm trong tửu sắc, không ham chính sự. Người ta thậm chí tin rằng nhà vua có hai cung điện riêng; một cho những tình nhân nữ và một cho những tình nhân nam của ông.[3] Đặc biệt, ngay từ nhỏ, Hy Tông đã có thích thú với việc chạm khắc gỗ, nên mặc dù đang ở ngôi, Minh Hy Tông suốt ngày chỉ biết khắc chạm, vẽ lên gỗ, nghệ thuật điêu khắc gỗ của Hy Tông rất khéo và tinh xảo.[4] Đặc biệt, ông đã ra lệnh bán những sản phẩm gỗ của mình trên thị trường chỉ để xem chúng có giá trị bao nhiêu. Đời sống của người dân trở nên tồi tệ hơn trong thời Thiên Khải, và nhà Minh cũng bắt đầu phải đối mặt với một số cuộc khởi nghĩa nông dân. Ngụy Trung Hiền nắm quyền trong triều, bắt đầu gây dựng thế lực, bổ nhiệm những người mà ông ta tin tưởng vào các vị trí quan trọng trong triều đình. Ông ta giữ mọi quyền hành, cùng các thủ hạ hoành hành ngang ngược, tàn hại sinh dân vô cùng, khiến đất nước trở nên kiệt quệ. Trong khi đó, Khách thị tìm cách duy trì quyền lực bằng cách loại bỏ tất cả những người phụ nữ khác khỏi hậu cung của hoàng đế bằng cách bắt giam các phi tần của hoàng đế và bỏ đói họ đến chết. Một nhóm nhà Nho học thuộc Đông Lâm đảng tỏ ra rất bất bình.[5] Họ đả kích phái của Ngụy Trung Hiền, kết quả lại bị đám theo phe họ Ngụy mở cuộc đàn áp đẫm máu, diệt sạch Đông Lâm đảng. Qua đờiNăm 1627, tháng 8, Hy Tông ngự giá cùng Ngụy Trung Hiền và Vương Thể Kiền (王體乾) đến Tây Uyển xem dân phu đào hồ, bất ngờ bị rơi xuống nước. Tuy ông được cứu kịp thời nhưng do sức khỏe yếu, lại sợ hãi quá độ mà sinh trọng bệnh. Biết mình khó qua khỏi, lại không có con trai kế vị vì cả ba người con trai của Hy Tông đều mất khi còn nhỏ tuổi, Hy Tông triệu em trai là Tín vương Chu Do Kiểm nhập cung để bàn chuyện kế vị. Ngày 30 tháng 9, Minh Hy Tông sau 7 năm tại vị đã qua đời khi chỉ vừa 21 tuổi. Tín vương Chu Do Kiểm lập tức kế vị, tức Minh Tư Tông Sùng Trinh hoàng đế. Ông được tôn miếu hiệu là Hy Tông (熹宗), thụy hiệu đầy đủ là Đạt Thiên Xiển Đạo Đôn Hiếu Đốc Hữu Chương Văn Tương Vũ Tĩnh Mục Trang Cần Triết Hoàng đế (達天闡道敦孝篤友章文襄武靖穆莊勤悊皇帝), an táng tại Đức lăng (德陵). Vì cả ba công chúa của Hy Tông đều mất sớm, nên có vẻ như vị hoàng đế này không có bất kỳ người con nào còn sống sau khi ông qua đời. Gia đình
Chú thích
|