Bài viết này cần được cập nhật do có chứa các thông tin có thể đã lỗi thời hay không còn chính xác nữa. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách cập nhật cho bài viết này.(12/2024)
Hong Jin-young hay Hồng Chân Anh (sinh ngày 9 Tháng 8, 1985) là một ca sĩ và nghệ sĩ nhạc trẻ người Hàn Quốc. Cô là thành viên của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc SWAN ngắn ngủi, ra mắt vào năm 2007. Năm 2009, cô trở lại sân khấu âm nhạc, ra mắt với tư cách là một ca sĩ nhạc trot. Cô được biết đến với khả năng thanh nhạc, aegyo đặc sắc, xuất hiện trên nhiều chương trình tạp kỹ và xuất hiện tại các sự kiện khắp Hàn Quốc quanh năm.
Sự nghiệp
2006–2008: Khởi nghiệp
Hong Jin-young lần đầu tiên xuất hiện trong các vai diễn điện ảnh và truyền hình nhỏ. Năm 2006, cô có một vai phụ trong bộ phim Who Slept With Her? (누가 그녀 와 잤 을까) và cô ấy cũng đóng một vai trong Yeon Gaesomun, một bộ phim cổ trang Hàn Quốc diễn ra vào thế kỷ thứ bảy.[2]
Hong Jin-young bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của mình vào năm 2007, với SWAN (스완), một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc gồm các thành viên Han Ji-na, Hong Jin-young, Heo Yoon-mi và Kim Yeon-ji, với ca khúc đầu tay "Call Me When You Hear This Song "(이 노래 들으면 전화 해), kết hợp với Coolapika.
2009– đến nay: Đơn ca
Năm 2009, Giám đốc điều hành công ty quản lý của cô (CCM) đề nghị cô chuyển sang trở thành ca sĩ solo nhạc trot, một gợi ý ban đầu mà cô chống lại vì tuổi còn trẻ, vì trot được coi là một thể loại âm nhạc "lớn tuổi" ở Hàn Quốc. Tuy nhiên, cô đã phát hành đĩa đơn kỹ thuật số đầu tiên của mình, "Love Battery" (사랑 의 배터리). Vào ngày 6 tháng 8 năm 2010, cô trở lại với một đĩa đơn kỹ thuật số mới mang tên "My Love". Vào ngày 30 tháng 6 năm 2011, Hong cùng với nhiều ngôi sao đang lên của Hàn Quốc đã hát tại Khu liên hợp thể thao Changwon trong buổi hòa nhạc mang tên "Changwon First Anniversary Hope Concert, We Are".[3] Vào ngày 22 tháng 3 năm 2013, cô trở lại với việc phát hành đĩa đơn kỹ thuật số, "Boogie Man" (부기맨). Trong năm 2014, cô ấy đã chia tay Core Contents Media cùng với Davichi.[4]
Hong nổi tiếng với nhiều lần xuất hiện trên các chương trình tạp kỹ âm nhạc nổi tiếng như Immortal Songs 2 và King of Mask Singer. Năm 2014, cô là một thành viên tham gia hội thảo và cũng có cuộc hôn nhân ảo với Namkoong Min trong một chương trình tạp kỹ nổi tiếng, We Got Married. Vào tháng 11 năm đó, Hong đã phát hành EP đầu tiên của mình, Life Note (인생 노트) với ca khúc chủ đề “Cheer Up” (산다는 건). Người chồng ảo của cô, Namkoong Min, xuất hiện với tư cách là người yêu của cô trong video âm nhạc với vai trò khách mời.[5]
Năm 2016, cô phát hành EP thứ hai, The Most Beautiful Moment in Life (화양연화), với ca khúc chủ đề “Thumb Up” (엄지 척) và “Love Wifi” (사랑 의 와이파이). Cô cũng đã phát hành bản cover một bài hát nổi tiếng của Trung Quốc có tên “The Moon Represents My Heart” (月亮 代表 我 的 心 / 월량 대표 아 적심). Đối với bản làm lại của Hàn Quốc, Hong đã tự viết lời.
Vào tháng 2 năm 2017, Hong đã phát hành một đĩa đơn kỹ thuật số có tên “Loves Me, Loves Me Not” (사랑한다 안한다) từ “A Fabricated City” (조작 된 도시) OST.
Năm 2017, Hong được chọn làm thành viên thường xuyên của Sister's Slam Dunk. Cô được các nhà sản xuất chỉ định làm rapper vì ước mơ của Hong là trở thành rapper cho một nhóm nhạc, và cô đã nhận được sự chỉ đạo từ trưởng nhóm Minzy và Jeon So-mi đã viết lời rap cho đĩa đơn của họ, "Right?" (맞지?).
Hong đã hợp tác với diễn viên hài Kim Young-chul để phát hành đĩa đơn điện tử (EDM và trot) "Ring Ring" (따르릉) vào ngày 20 tháng 4 năm 2017,[6] mà họ đã giành được Best Trot tại Lễ trao giải MelOn Music 2017.
Vào năm 2018, Hong đã phát hành một đĩa đơn kỹ thuật số theo phong cách retro trot, "Good Bye" (잘 가라), được sáng tác bởi cộng tác viên lâu năm của cô là Jo Young-soo (người cũng đã sáng tác "Love Battery" và "Cheer Up") và được nhiều người biết đến. Nhà viết lời K-pop Kim Eana. Cô đã viết và sáng tác đĩa đơn điện tử thứ hai "I Kicked My Luck Off" (복 을 발로 차 버렸어) cho Kang Ho-dong, được phát hành thông qua SM Station. Vào tháng 12 năm 2018, Hong đã phát hành một đĩa đơn trot về con người và trải nghiệm ở Seoul, mang tên "Seoul" (서울 사람), hợp tác với rapper Bray (브레이) do cô sản xuất cùng Park Keun-tae (박근태).[7]
Vào tháng 1 năm 2019, Hong đã phát hành một đĩa đơn kỹ thuật số, một bản ballad có tựa đề "Love Is…" (사랑 은 다 이러니).[8] Vào ngày 12 tháng 1 năm 2019, Hong đã có buổi biểu diễn đầu tiên tại Hoa Kỳ tại Pechanga Resort & Casino ở California, với hơn 3.000 khán giả.[9] Vào tháng 3 năm 2019, Hong cuối cùng đã phát hành album phòng thu đầu tiên của mình, mang tên Lots of Love (랏츠 오브 러브).[10] Cô thường xuất hiện trên đài KBS 1TV 'Golden Oldies (Tiếng Triều Tiên: 가요 무대)'.[11]
Cuộc sống cá nhân
Năm 2012, Hong hoàn thành chương trình Tiến sĩ tại Đại học Chosun về Quản trị Kinh doanh. Cô cũng đã tốt nghiệp chương trình Cử nhân Thương mại và Thạc sĩ Thương mại tại cùng trường đại học cho đến tháng 12 năm 2020.
Vào ngày 6 tháng 11 năm 2020, Hong đưa ra một tuyên bố khác sau khi cáo buộc tiếp tục lan rộng. Trong tuyên bố được công bố trên Instagram cá nhân của mình, cô ấy nói rằng "Tôi đã quyết định từ bỏ bằng thạc sĩ và tiến sĩ của mình. Tôi nghĩ đó là điều tốt nhất mà tôi có thể làm vào lúc này."
Vào ngày 15 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Liêm chính trong Nghiên cứu thuộc Ủy ban Đạo đức Đại học Chosun đã đưa ra phán quyết dự kiến về đạo văn liên quan đến luận văn thạc sĩ của Hong và đưa ra kết luận rằng luận án có thể bị đạo văn. Ủy ban sau đó đã chuyển vụ việc lên Ủy ban Sau đại học, nơi đã cho Hồng đến 5 giờ chiều KST vào ngày 18 tháng 12 để nộp giải trình bằng văn bản, trước khi đưa ra quyết định cuối cùng để xác định xem đạo văn có diễn ra hay không thông qua một cuộc họp sẽ được tổ chức vào tháng 12. 23. Nếu cuộc họp xác định rằng cô ấy đạo văn, thì bằng thạc sĩ và tiến sĩ của cô ấy sẽ tự động bị hủy bỏ.
Vào ngày 18 tháng 12 năm 2020, Hong đưa ra một tuyên bố khác thông qua Instagram cá nhân của mình, nói rằng cô ấy sẽ chấp nhận kết luận dự kiến của Đại học Chosun về việc đạo văn và cô ấy thừa nhận đã đạo văn luận án của mình.
Vào ngày 23 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Sau đại học của Đại học Chosun xác nhận rằng luận án thạc sĩ của Hong đã bị đạo văn và theo đó tất cả các bằng cấp sau đại học của cô nhận được từ trường Đại học sẽ bị hủy bỏ.
^“Ring Ring”. m.app.melon.com. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2018.
^Kim, Ye-na (ngày 2 tháng 12 năm 2018). “서울사람이라면 들어봐야지…홍진영의 '서울사람'”. ytn.co.kr (bằng tiếng Hàn). YTN News. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2018. 홍진영은 “‘서울사람’은 기존에 해왔던 스타일과 다른 노래라 저에게도 큰 경험이 됐다. 바쁜 서울 생활로 지친 분들에게 위로가 되는 곡이 되길 바란다”고 소개했다. ‘서울사람’은 서울에서 느끼는 공허함과 외로움을 표현한 노래. 홍진영의 쓸쓸한 목소리가 감상 포인트. 박근태 프로듀서는 2016년부터 미스틱엔터테인먼트와 함께 ‘Prod. by 박근태’ 프로젝트를 진행하고 있다.2023 신한생명 무료운세Lưu trữ 2022-12-05 tại Wayback Machine
^Hong, Jin-young (ngày 12 tháng 1 năm 2019). “hongjinyoung 홍진영 on Instagram”. instagram (bằng tiếng Hàn). sambahong. LA콘서트 끝 3천석 넘게 객석 가득 채워주신 여러분들 정말 너무너무 감사합니당^^ 저도 너무 행복하게 공연한거같아요☺️공연 마무리 셀카는 고생많이한 #잘태 #문재 #수지 #윤선 #예슬 #선영언니 #타이니오빠 함께ㅋㅋㅋ 여러분!! 오늘 #미우새 하는날이라면서용? #속닥속닥 이따봐요오옹 하뚜
^“홍진영 "10년만에 첫 정규, 초심으로 돌아가는 기분"”. isplus.live.joins.com (bằng tiếng Hàn). ngày 10 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2020.
^“2014년 12월 Album Chart (국내)” [December 2014 Album Chart (Domestic)]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.
^“2016년 03월 Album Chart” [March 2016 Album Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.
^“Gaon Digital Chart”. Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2018.
“My Love”. ngày 4 tháng 8 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2018.
“Loves Me, Loves Me Not”. ngày 11 tháng 2 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2017.
“Good Bye”. ngày 10 tháng 2 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2018.
“Love Is...”. ngày 12 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2019.
“Love Tonight”. ngày 15 tháng 6 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2019.
“Love Is Like a Petal”. ngày 11 tháng 4 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2020.
^“2013년 03월 Download Chart” [March 2013 Download Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). tr. 2. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.
“2014년 Download Chart” [2014 Download Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). tr. 3. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.
“2015년 Download Chart” [2015 Download Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). tr. 2. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.
^“2015년 02월 Download Chart” [February 2015 Download Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.
^“2016년 03월 Download Chart” [March 2016 Download Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). tr. 3. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.
^“2016년 27주차 Download Chart” [Week 27 of 2016 Download Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.
^“2016년 06주차 Download Chart” [Week 06 of 2017 Download Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.
^“2014년 15주차 Download Chart” [Week 15 of 2014 Download Chart]. Gaon Music Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.
^Yang, Mi-sun (ngày 23 tháng 3 năm 2018). 한국 연예계의 세대교체 [Generational change in Korean entertainment industry]. JoongAng Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2021 – qua Joins.
^Kim, Min-soo (ngày 23 tháng 4 năm 2019). 파워 셀럽 40인은 누구? [Who are the 40 power celebrities?]. JoongAng Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2021 – qua Joins.
^Kim, Min-soo; Shin, Yoon-ae (ngày 23 tháng 4 năm 2020). 2020 포브스코리아 선정 파워 셀럽 40 [40 Power Celebrities selected by Forbes Korea 2020]. JoongAng Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2021 – qua Joins.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Hong Jin-young.