Chi này trước đây có định nghĩa rộng, bao gồm nhiều loài mà hiện nay được xếp trong các chi khác, đáng chú ý là Styphnolobium (hòe), với khác biệt rõ nét nhất là thiếu vi khuẩn cố định đạm (vi khuẩn nốt rễ) trên rễ, và Calia (đậu Mescal).
Tại New Zealand các loài trong chi Sophora được biết đến dưới tên gọi kowhai.
Toromiro (Sophora toromiro) trước đây là cây phổ biến trong các khu rừng của đảo Phục Sinh. Tuy nhiên, chúng đã bị đốn hạ trong quá trình tàn phá rừng trên đảo vào thế kỷ 18, và sau đó bị tuyệt chủng trong tự nhiên. Loài cây này được tái trồng trên đảo trong một dự án khoa học do Vườn thực vật Hoàng gia Kew và Vườn thực vật Göteborg chủ trì, trong đó các cây duy nhất còn lại của loài này với nguồn gốc rõ ràng đã được trồng trong thập niên 1960 từ các hạt do Thor Heyerdahl thu thập.
Sophora macrocarpa là loài cây gỗ nhỏ có nguồn gốc từ Chile, được gọi tại đây là mayo hay mayú.
Heenan P.B, de Lange P.J, Wilton A.D. (2001) "Sophora (Fabaceae) tại New Zealand: phân loại, phân bổ và địa sinh học." New Zealand Journal of Botany. 39: 17-53 trực tuyếnLưu trữ 2008-07-06 tại Wayback Machine
Yakovlev G. P. 1967. Zametki po sistematike i geographii roda Sophora L. i blizkikh rodov. Systematical and geographical studies of genus Sophora L. and allied genera. Trudy Leningradsk. Khim.-Farm. Inst. 21: 42-62.