Binh đoàn La MãLegion Romana tức Quân đoàn La Mã, Binh đoàn La Mã là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã. Legion Romana được phiên âm là Lê dương La Mã[1] để chỉ loại bộ binh nặng và đôi khi là toàn bộ Quân đội La Mã. Lực lượng nòng cốt của Quân đoàn La Mã là bộ binh nặng hay lê dương (phiên âm Hán Việt của tiếng Pháp légion, trong tiếng Anh còn gọi là Legionary), kèm theo quân đồng minh hỗ trợ (auxilium, binh lính không có quyền công dân La Mã), kỵ binh, lính xạ kích (bắn cung, máy bắn đá) và lính ném lao. Về mặt từ nguyên, trong tiếng Latinh legion có nghĩa là "chế độ quân sự cưỡng bách", có nguồn gốc từ lego nghĩa là tập trung. Quân số của một quân đoàn La Mã tiêu biểu biến đổi theo thời gian. Trong giai đoạn Cộng hòa mỗi quân đoàn có 4.200 người chia thành 30 đến 35 tiểu đoàn (manipulus)[2], mỗi tiểu đoàn 120 đến 140 người. Sang giai đoạn Đế quốc quân số của một quân đoàn tăng lên thành khoảng 5.200 người cộng thêm quân đồng minh hỗ trợ chia làm 10 đội quân (cohort), mỗi đội quân có 480 lính, riêng đội quân thứ nhất có 800 lính. Bộ binh được yểm trợ bởi kỵ binh ở hai bên sườn và lính xạ kích ở phía sau. Vì các quân đoàn thường trực chỉ được tổ chức trong hệ thống quân đội La Mã sau cải cách của Marius (107 TCN) còn trước đó nó có tính nhất thời (được thành lập, sử dụng khi cần thiết và sau đó giải tán) nên hàng trăm quân đoàn đã được đặt tên và xếp số thứ tự trong lịch sử La Mã. Đến nay, chỉ có khoảng 50 quân đoàn có thể xác định được rõ ràng. Trong thời kỳ đầu của Đế quốc La Mã, thường có 25 đến 35 quân đoàn thường trực cùng với quân đồng minh và sẽ được tăng thêm khi cần thiết. Xem Danh sách các quân đoàn La Mã để biết thêm thông tin về chúng trong từng giai đoạn. Vì sự thành công về quân sự của Cộng hòa La Mã và Đế quốc La Mã, quân đoàn La Mã từ lâu đã được coi là mô hình ưu tú thời cổ đại về năng lực và hiệu quả quân sự. Lịch sửVương quốc La Mã (tới năm 500 TCN)Trong thời kỳ đầu của Vương quốc La Mã và Cộng hòa La Mã, các quân đoàn chưa được sử dụng, thay vào đó là các đại đội một trăm người được ghép với nhau theo những hình thức ngẫu nhiên và chỉ phục vụ người trả tiền cho họ. Cho đến thế kỷ 2 TCN, các đại đội được tổ chức từ kỵ binh và bộ binh nhẹ rồi sau đó được thay thế bởi quân hỗn hợp. Trong giai đoạn này đội hình Phalanx Hy Lạp là chiến thuật chủ yếu trong đánh trận và lính La Mã trông rất giống bộ binh trang bị vũ khí hạng nặng (còn gọi là trọng binh - Hoplite) của Hy Lạp.[3] Lịch sử La Mã trong những kỷ nguyên đó có khá nhiều điều được cấu thành bởi truyền thuyết, nhưng có thể tin rằng trong triều đại Servius Tullius, điều tra dân số đã hiện diện. Tất cả nam công dân La Mã khỏe mạnh, có tài sản được chia làm 5 tầng lớp để thực hiện nghĩa vụ quân sự và người lính phải tự vũ trang cho mình. Những tầng lớp này được tổ chức thành các đại đội 100 người, có một đại đội trưởng, một đại đội phó và một người cầm quân kỳ. Tham gia quân đội vừa là nghĩa vụ vừa là dấu hiệu phân biệt đẳng cấp của công dân La Mã. Trong toàn bộ thời kỳ trước cải cách của Marius, những chủ đất giàu nhất cũng có thời gian ở trong quân ngũ nhiều nhất bởi vì họ chính là đối tượng chịu thiệt hại nhất nếu Nhà nước sụp đổ. Tầng lớp thứ nhất có 82 đại đội, được trang bị theo kiểu bộ binh nặng Hy Lạp với thương, kiếm ngắn, mũ trụ, giáp ngực và khiên tròn (tiếng Latin gọi là clipeus, tương tự khiên tròn - aspis hay hoplon mà trọng binh Hy Lạp sử dụng). Tầng lớp thứ hai và thứ ba cũng là lính mang thương nhưng trang bị thô sơ hơn và sử dụng khiên rộng hơn, hình bầu dục hoặc tam giác. Tầng lớp thứ tư hầu như không đủ khả năng tự vũ trang, chỉ có khiên nhỏ, thương và lao. Ba tầng lớp sau, mỗi tầng lớp có khoảng 26 đại đội. Tầng lớp cuối cùng thì chỉ là lính ném đá. Sĩ quan chỉ huy và kỵ binh được lấy từ những người có ngựa thuộc tầng lớp quyền thế. Sau này kỵ binh được chia nhỏ thành nhóm 30 người do một thập trưởng chỉ huy. Tầng lớp thứ năm được tổ chức thành 32 đại đội bộ binh (trong đó có 2 đại đội công binh) và 18 đại đội kỵ binh.[4]. Chiến thuật không có sự khác biệt so với người Hy Lạp. Trận chiến diễn ra trên bình nguyên. Bộ binh cầm thương xếp hàng sát vào nhau tạo thành một bức tường khiên và tấn công đối phương với sự trợ giúp của lính ném đá và ném lao. Kỵ binh có nhiệm vụ truy kích và đôi khi xuống ngựa chiến đấu như bộ binh trong những tình huống nguy cấp. Chiến thuật này là sự vận động của một khối quá cồng kềnh và dễ thất bại trước các bộ tộc sinh sống ở vùng có địa hình phức tạp như Volsci hoặc Samnites. Các pháp quan, người lãnh đạo dân sự của La Mã cổ đại, cũng là chỉ huy quân sự trong thời chiến (thường là từ mùa xuân đến mùa thu). Hành động tuyên chiến có một nghi lễ tôn giáo kết thúc bằng việc ném một ngọn lao dùng trong buổi lễ sang phần đất của đối phương để đánh dấu sự khởi đầu của tình trạng chiến tranh. Cộng hòa La Mã (509-107 TCN)Có lẽ vào bắt đầu từ thời kỳ Cộng hòa La Mã, sau khi lật đổ chế độ quốc vương, lính lê dương La Mã được chia ra làm hai đạo quân, mỗi đạo[5] đặt dưới quyền chỉ huy của một trong hai Quan chấp chính tối cao. Trong những năm đầu tiên của nền Cộng hòa, do khi đó chiến tranh chủ yếu là những cuộc đột kích và cướp phá, nên có lẽ các quân đoàn này không phải lúc nào cũng được tập trung đầy đủ binh lực.[6] Các quân đoàn bắt đầu được tổ chức một cách chính thức vào khoảng thế kỷ thứ 4 TCN, khi người La Mã tiến hành chiến tranh theo chiến dịch chuẩn bị trước một cách thường xuyên hơn và quân đội chấp chính lên tới hai đạo quân. Trong giai đoạn Cộng hòa La Mã, thời gian tồn tại của một quân đoàn rất ngắn ngủi. Ngoại trừ các quân đoàn từ I đến IV là các quân đoàn thuộc hai đạo quân của các Chấp chính, các quân đoàn khác chỉ được tuyển mộ cho từng chiến dịch. Những đồng minh của La Mã ở nước Ý được yêu cầu cung cấp một quân đoàn trợ chiến cho mỗi quân đoàn La Mã. Chức Quan giám quân (Tribuni militum) xuất hiện sau năm 331 TCN, đầu tiên họ đóng vai trò là các sĩ quan chỉ huy của các quân đoàn nhưng sau đó cũng đồng thời là người đại diện của Nhà nước La Mã. Mỗi quân đoàn có 6 Quan giám quân và cứ lần lượt 2 người trong số đó được giao quyền chỉ huy. Tổ chức nội bộ của các quân đoàn La Mã trở nên phức tạp hơn, từ đội hình Phalanx cổ điển trở thành hệ thống các tiểu đoàn (manipular) cho phép đổi mới về mặt chiến thuật. Lần đầu tiên, cấp bậc của binh lính được phân loại dựa trên kinh nghiệm chiến đấu và tuổi tác chứ không phải sự giàu có, đồng thời Nhà nước chu cấp vũ khí cũng như trang bị căn bản, trừ kỵ binh (eques) vẫn phải tự trang bị ngựa. Ở thời kỳ giữa của nền Cộng hòa, một quân đoàn bao gồm:
Các tuyến quân trên đều được chia thành các tiểu đoàn (manipulus), mỗi tiểu đoàn gồm 2 đại đội (Centuriae), tiểu đoàn trưởng là sĩ quan nhiều tuổi hơn trong số 2 đại đội trưởng. Một đại đội thường có 60 đến 70 người (chứ không phải 100 như thời kỳ Vương quốc La Mã). Mỗi tuyến quân đều có 10 tiểu đoàn, khi dàn trận, các tiểu đoàn cách nhau một khoảng bằng chiều rộng đội hình của nó. Cộng thêm 10 tiểu đoàn bộ binh nhẹ, một quân đoàn La Mã có khoảng 4.200 bộ binh và 300 kỵ binh[8]. Sau khi Marius cải cách quân đội, quân đoàn La Mã có 80 đại đội, mỗi đại đội đều có biểu tượng riêng của mình và gồm 10 tiểu đội (contubernia). Một tiểu đội có tám binh sĩ dùng chung một căn lều, một cối xay, một con la và nồi nấu ăn (phụ thuộc vào độ dài của cuộc hành quân). Bởi vì các tiểu đoàn là đơn vị tác chiến cơ bản nên quân đoàn La Mã thời kỳ này đôi khi còn được gọi là "manipular legion". Việc chia nhỏ những phalanx dày đặc và cứng nhắc thành những tiểu đoàn linh hoạt sử dụng đoản kiếm chứ dùng thương dài đã giúp cho các quân đoàn La Mã có được sức mạnh hủy diệt. Về chiến thuật, đội hình chia nhỏ này rất linh hoạt vì khi cánh quân này tấn công, cánh quân khác có thể kiềm chế hoặc vu hồi, bao vây.... Mặt khác, trên tổng thể, nó cũng rất vững chắc do các tiểu đoàn kết thành một khối theo chiều ngang trong khi 3 tuyến quân kết hợp theo chiều dọc tạo thành một phalanx khổng lồ. Nói về các quân đoàn La Mã, sử gia Hy Lạp cổ đại Polibius cho rằng thanh đoản kiếm hai lưỡi mà binh lính sử dụng "rất hữu hiệu để đâm chém vì có lưỡi rất cứng chắc" rồi kết luận: "quân đoàn La Mã có thể thích nghi ở mọi nơi mọi lúc và cho bất cứ mục tiêu nào".[9] Mặc dù có những tiến bộ vượt bậc về chiến thuật so với đội hình phalanx Hy Lạp, quân đoàn La Mã có hai nhược điểm chính. Thứ nhất, khi tác chiến trong địa hình hẹp (thung lũng, hẻm núi...) các tiểu đoàn mất đi tính linh hoạt vì phải co cụm lại và không có đủ không gian cần thiết để phát huy lợi thế của phóng lao kèm theo cận chiến bằng đoản kiếm. Trận Cannae là ví dụ điển hình, năm 216 TCN, trong cánh đồng Cannae chật hẹp, 80.000 quân La Mã và đồng minh đã bị Hannibal với lực lượng ít hơn nhiều dùng thế trận hình trăng khuyết khoá cứng hai bên sườn, hợp vây và tiêu diệt phần lớn. Thứ hai, khi chiến đấu trong địa hình quá rộng và trống trải, với sự thiếu thốn kỵ kinh, quân đoàn La Mã không có cách nào chống lại hữu hiệu những cuộc đột kích của các toán quân du mục hoặc lính bắn cung bởi lẽ các tiểu đoàn bộ binh không thể truy bắt hoặc tiêu diệt chúng. Cuối Cộng hòa La Mã (107-30 TCN)Sau cải cách của Marius vào năm 107 TCN, Legio được hiểu với nghĩa thứ hai hẹp nhưng quen thuộc hơn là "bộ binh nặng được tuyển lựa từ các công dân La Mã" Cuối thế kỷ thứ 2 TCN, Gaius Marius (người mà Julius Caesar gọi là dượng) đã tiến hành cải tổ những quân đoàn tạm bợ trước đây thành một lực lượng chuyên nghiệp được tuyển mộ cả từ những tầng lớp nghèo khó nhất. Nhờ đó La Mã có thể gia tăng quân số và tạo việc làm cho thị dân La Mã thất nghiệp.[10]. Quân đội trước đây nòng cốt là những tiểu chủ và mang tính chất nghiệp dư đã được chuyên nghiệp hoá cao độ. Thay vì tự trang bị vũ khí, quân đội được tiêu chuẩn hoá trên mọi phương diện và được trang bị bằng ngân sách quốc gia. Thời gian quân ngũ cũng được Marius quy định là 16 năm chứ không phải vô hạn định như trước. Tuy nhiên, việc chuyên nghiệp hoá quân đội đã khiến cho lòng trung thành của binh lính hướng tới tướng chỉ huy trực tiếp, người cung cấp vũ khí, lương thực cho họ hơn là nhà nước La Mã. Lính lê dương vào giai đoạn cuối của nền Cộng hòa và khởi nguyên của thời kỳ Đế quốc thường được gọi là "lính lê dương Marius". Sau Trận Vercellae năm 101 TCN, Marius tuyên bố trao quyền công dân La Mã cho mọi binh lính người Ý. Ông bào chữa trước Viện Nguyên lão rằng trong sự hỗn loạn của trận chiến, ông không thể phân biệt được đâu là công dân La Mã đâu là lực lượng đồng minh. Việc này ngay lập tức xóa bỏ khái niệm quân đồng minh. Từ đây tất cả binh sĩ đều là lính lê dương La Mã và quyền công dân La Mã đầy đủ mở ra cho bất cứ ai gia nhập quân đội. Ba loại bộ binh nặng tương ứng với ba tuyến quân trước kia được thay thế bằng một loại duy nhất, về cơ bản dựa trên Principes, trang bị gồm: 2 thanh lao (pilum), một đoản kiếm hai lưỡi (gladius), áo giáp lưới (lorica hamata) hoặc áo giáp tấm (lorica segmentata), mũ sắt và khiên hình chữ nhật uốn cong che nửa người (scutum). Vai trò của các quân đoàn đồng minh được thay thế bằng lực lượng trợ chiến (Auxilium). Mỗi quân đoàn La Mã đều có lực lượng trợ chiến với quân số tương đương. Lực lượng trợ chiến gồm các loại quân đặc dụng: công binh, lính mở đường, người phục vụ, cung thủ, thợ rèn và các đơn vị lính đánh thuê, quân địa phương không phải là công dân La Mã. Họ được tổ chức thành những đơn vị hoàn chỉnh như kỵ binh nhẹ, bộ binh nhẹ hay lính phóng lao. Lính trợ chiến còn có thể được sử dụng để lập thành các nhóm gồm 10 lính cưỡi ngựa (speculatores) hoặc đông hơn làm nhiệm vụ liên lạc hay thám báo - một hình thức sơ khởi của tình báo quân sự. Tổ chức căn bản của các quân đoàn La Mã cũng được cải tiến và tiêu chuẩn hóa. Nòng cốt của quân đoàn là những đội quân (cohort). Trước đó, đội quân chỉ hình thành một cách nhất thời bằng cách ghép các tiểu đoàn lại do yêu cầu chiến thuật, thời gian tồn tại của nó còn ngắn ngủi hơn các quân đoàn trong buổi đầu của nền Cộng hoà. Sau cải cách của Marius, đội quân trở thành một đơn vị chiến thuật cơ bản của quân đoàn La Mã và thường có quân số 480 người. Mỗi quân đoàn có 10 đội quân và đội hình chiến thuật cũng được cải tiến: ba tuyến quân tương ứng với ba loại quân, mỗi tuyến có 10 tiểu đoàn được thay thế bởi một loại duy nhất là bộ binh nặng, tuyến đầu gồm 4 đội quân, hai tuyến sau mỗi tuyến gồm 3 đội quân. Đối với đại đội, ngoài đại đội trưởng còn có thêm một đại đội phó (optio), được đại đội trưởng chọn trong số binh lính biết chữ. Đại đội trưởng có thâm niên cao trong quân đoàn sẽ chỉ huy đội quân thứ nhất và được gọi là primus pilus. Đó là một quân nhân chuyên nghiệp, là cố vấn cho tổng chỉ huy quân đoàn và có thể được bổ nhiệm các chức vụ cao hơn. Một quân đoàn điển hình có khoảng 4.000-5.000 lính cộng với một số tương đương thậm chí nhiều hơn dân binh, người phục dịch và nô lệ. Tính cả lực lượng hỗ trợ, một quân đoàn có thể có tới 6.000 lính chiến đấu, tuy nhiên trong giai đoạn sau của lịch sử La Mã con số đó giảm xuống còn hơn 1.000 để nâng cao tính cơ động. Quân số còn phụ thuộc vào mức độ thương vong trong một chiến dịch, ví dụ quân đoàn của Julius Caesar trong chiến dịch ở Gaule chỉ có khoảng 3.500 người. Để tổ chức hậu cần, mỗi quân đoàn có 640 con la, khoảng 8 lính có một con. Để tránh cho đàn la không quá đông hoặc di chuyển quá chậm chạp, Marius yêu cầu binh lính phải tự mang đến mức tối đa quân trang, quân dụng: toàn bộ vũ khí và thức ăn cho 15 ngày (tổng cộng khoảng 22 – 27 kg). Marius phát cho binh lính đòn chạc để họ thuận tiện hơn trong việc mang vác. Những người lính vì thế có biệt danh là "con la của Marius". Điều này giúp cho bộ phận hậu cần có thể tách khỏi đoàn quân làm tăng tốc độ hành quân. Chiến thuật cũng có bước tiến quan trọng. Mười đơn vị chiến thuật căn bản thay vì ba mươi như trước đây trở nên mạnh mẽ và linh hoạt hơn. Các đội quân có thể tập trung tấn công những điểm cá biệt trong phòng tuyến đối phương và những đợt tấn công cũng không nhất thiết chia thành ba đợt một cách cứng nhắc mà đã được đa dạng hoá bằng cách sử dụng đội quân đánh vu hồi, tập hậu. Sau cải cách của Marius cho đến suốt thời kỳ cuối của Cộng hòa La Mã, các quân đoàn La Mã đóng một vai trò chính trị quan trọng. Đầu thế kỷ thứ 1 TCN, mối đe doạ từ các Quân đoàn dưới sự thống lĩnh của tướng chỉ huy rất được lòng dân bắt đầu bộc lộ. Các Thống đốc bị cấm rời khỏi tỉnh của mình cùng với quân đội. Khi Julius Caesar phá bỏ luật lệ này và đem Quân đoàn XIII (Legio XIII) rời tỉnh Gaule vượt sông Rubicon tiến vào nước Ý, ông đã gây nên một cuộc khủng hoảng hiến pháp. Cuộc khủng hoảng này cùng với nội chiến sau đó đã chấm dứt nền Cộng hòa và khai sinh Đế quốc La Mã dưới sự trị vì của hoàng đế Augustus năm 27 TCN. Đầu Đế quốc La Mã (30 TCN-284)Vì cả lý do kinh tế lẫn chính trị, Augustus giảm số quân đoàn từ gần 50 trong giai đoạn cuối cuộc chiến với Marcus Antonius xuống khoảng 28 rồi còn 25 sau khi ba quân đoàn La Mã do Publius Quinctillius Varus chỉ huy bị quân dân German do tù trưởng Arminius (Hermann) lãnh đạo diệt gọn trong trận rừng Teutoburg. Trước đó, trong cuộc nội chiến Cộng hòa, các tướng lĩnh thành lập các Quân đoàn của mình với số lượng tuỳ thích. Kết thúc nội chiến, Augustus để lại khoảng 50 quân đoàn, trong số đó có nhiều quân đoàn bị đánh số trùng nhau (ví dụ: có nhiều Quân đoàn X). Ngoài việc tổ chức lại quân đội và kiểm soát việc trả lương cho binh lính, Augustus còn hiệu chỉnh lại sự đánh số khác thường ấy. Trong giai đoạn này, xuất hiện cái gọi là Gemina Legio (Quân đoàn kép): hai quân đoàn hợp lại thành một rồi dần được chính thức hoá và đặt dưới sự chỉ huy của một thống đốc cùng sáu thủ lĩnh. Đồng thời, Augustus gia tăn số lính trợ chiến lên mức ngang bằng với số lính lê dương. Ông còn thành lập đội Cận vệ của Hoàng đế La Mã (Praetoriani) và Hải quân La Mã tuyển quân từ dân tự do hoặc nô lệ được giải phóng. Chính sách quân sự của Augustus chứng tỏ sự đúng đắn và hiểu quả cao, và nói chung đều được những người kế nhiệm tiếp tục theo đuổi. Những vị Hoàng đế này rất thận trọng khi thành lập các quân đoàn mới mặc dù hoàn cảnh yêu cầu hoặc đủ khả năng, cho đến khi tổng số quân thường trực đạt đến khoảng 30 quân đoàn. Với mỗi quân đoàn có khoảng 4.000-6.000 quân cùng với số lính trợ chiến tương đương, tổng quân số của một quân đoàn lên đến 8.000 - 12.000 (thời kỳ Thái bình La Mã - Pax Romana), các quân đoàn thiện chiến nhất đồn trú tại những vùng biên giới thù địch. Một số quân đoàn được tăng cường với quân số tới khoảng 15.000 - 16.000, tương đương với một sư đoàn ngày nay. Trong hai thế kỷ sau đó, đế chế La Mã có trong tay từ 25 đến 30 quân đoàn, thường trực trú đóng tại các tỉnh, được yểm trợ bởi khoảng 350.000 đến 375.000 kỵ binh và khinh binh, tổng cộng khoảng nửa triệu quân ăn lương. Từ Scotland đến Syria, mọi quân nhân La Mã đều mặc quân phục như nhau và cùng bảo vệ một thứ thành lũy được xây dựng theo cùng một cách thức.[11] Suốt thời kỳ Đế quốc La Mã, các quân đoàn giữ một vai trò chính trị rất quan trọng. Họ có thể giúp một người chiếm ngôi, giữ vững ngôi vị hoặc lật đổ ông ta. Ví dụ, việc đánh bại Vitellius trong Năm của Bốn Hoàng đế (năm 69 CN) được quyết định khi các quân đoàn đóng tại vùng Danube ủng hộ Vespasianus. Trong thời kỳ Đế quốc, các quân đoàn được tiêu chẩn hóa với những biểu tượng và lịch sử riêng mà tất cả những người đàn ông La Mã lấy làm tự hào khi phục vụ cho nó. Mỗi quân đoàn sẽ do một quân đoàn trưởng (tiếng Latin gọi là legatus) chỉ huy. Vị trí này thường là một Nguyên lão với nhiệm kỳ ba năm và ở độ tuổi khoảng 30. Dưới quyền người này là sáu Quan Giám quân (Tribuni militum), 5 trong số đó là sĩ quan tham mưu, người còn lại là đại diện của Viện Nguyên lão (khởi thủy thì người này là chỉ huy quân đoàn). Ngoài ra còn có những nhóm sĩ quan đảm nhiệm công tác y tế, công binh, thư ký, một đồn trưởng (prafectus castrorum) và cả những thầy phù thủy, nhạc công. Đế quốc La Mã (từ năm 284)Vào thời kỳ cuối của Đế quốc La Mã (trước 284 là thời kỳ đầu), số quân đoàn tăng lên và quân đội La Mã được mở rộng. Không có bằng chứng rõ ràng về sự thay đổi trong cơ cấu của các quân đoàn trước thời kỳ Bộ tứ (Tetrarchy)[12], chỉ biết rằng quân số của chúng thường ít hơn con số trên giấy tờ. Cơ cấu cuối cùng của các quân đoàn bắt nguồn từ các sứ quân (legiones palatinae) thiện chiến do Hoàng đế Diocletianus và các đồng Hoàng đế của ông lập ra. Đó là những đơn vị bộ binh có khoảng 1.000 người chứ không phải 5.000 người bao gồm cả kỵ binh như trước đây. Các sứ quân xuất hiện sớm nhất là Lanciarii, Joviani, Herculiani và Divitense. Do lãnh thổ của đế chế quá rộng lớn nên chủ nghĩa địa phương đã xuất hiện. Quân đội chuyên nghiệp La Ma là một tổng thể đa văn hoá nhưng rất nhiều quân đoàn cấp tỉnh chỉ đồn trú tại đó mà chưa từng trông thấy bất kỳ vùng đất nào khác của đế quốc La Mã. Binh lính đều được tuyển mộ tại địa phương. Điều đó là nguyên nhân dẫn đến các cuộc nổi dậy sau này thường xuất phát từ biên giới của đế chế. Cùng với sự ổn định của đường biên giới rộng lớn, các quân đoàn đồn trú đã chuyển từ đội quân chinh phạt thành một lực lượng cảnh sát đông đảo và rất tốn kém[13] để bảo vệ đế chế. Nói về binh lính La Mã đồn trú tại Antioch, nhà hùng biện Fronto cho rằng họ "dành thời gian để vỗ tay khen ngợi các diễn viên, và thường la cà ở những quán rượu hơn là trong đội ngũ. Ngựa thì bờm xơm vì thiếu chăm sóc trong khi tóc tai người lính thì cắt tỉa kỹ lưỡng." Thế kỷ thứ 4 (CN) chứng kiến một số lượng lớn các quân đoàn với quy mô nhỏ được thành lập, một quá trình bắt đầu dưới triều đại của hoàng đế Constantinus II. Bên cạnh các sứ quân đồn trú còn có những quân đoàn dự bị cơ động gọi là comitatenses và pseudocomitatenses, cùng với auxilia palatina cấu thành bộ binh La Mã. Notitia Dignitatum, tài liệu ghi chép của Pháp viện La Mã liệt kê 25 sứ quân, 70 legiones comitatenses, 47 legiones pseudocomitatenses và 111 auxilia palatina thuộc các lộ quân cùng với 47 quân đoàn phòng thủ tại biên giới [14]. Sự hình thành của lực lượng dự bị cơ động đã giúp cho việc phòng thủ đế chế La Mã có chiều sâu, những điểm nóng ngoài biên giới có thể được từ bỏ để rồi tái chiếm. Các quân đoàn được đặt theo tên các Hoàng đế như Honoriani (theo tên của hoàng đế Honorius) hay Gratianenses (theo tên của Hoàng đế Gratianus) tìm thấy trong tài liệu này cho thấy việc lập ra các quân đoàn này diễn ra trong suốt thế kỷ thứ 4 (CN) chữ không phải chỉ một vài sự kiện đơn lẻ. Tên gọi này cũng cho thấy các quân đoàn đó được tổ chức từ các chi đội độc lập (vexillatio) hoặc từ các quân đoàn cũ. Theo tác phẩm "Các vấn đề về quân sự" (De Re Militari) của nhà văn La Mã cổ đại Vegetius, mỗi đại đội có 1 máy bắn tên và mỗi đội quân có 1 máy bắn đá, tổng cộng một quân đoàn có hoả lực hãm thành với khoảng 59 máy bắn tên, 10 máy bắn đá, mỗi máy gồm 10 pháo thủ (libritor) đặt trên xe bò hoặc xe la. Ngoài tác dụng công phá trong hãm thành, các thiết bị trên còn có thể giúp người La Mã khi phòng thủ tại các tiền đồn (castra). Bất chấp sự chính trị hoá quân đội và hành chính hoá việc đồn trú cũng như các vấn đề về lương bổng, hưu trí, các quân đoàn La Mã vẫn chiến đấu tuyệt vời trong suốt gần 4 thế kỷ sau đó. Vegitus, tác giả cuốn "Cẩm nang quân sự La Mã" vẫn còn nhận thấy rằng, chính sự huấn luyện và tổ chức là nguồn gốc của sự thành công của quân đội La Mã.[15]. Các quân đoàn La Mã đã luôn tìm cách duy trì được kỷ luật nghiêm ngặt và kỹ năng xuất sắc, đặc trưng của ưu thế quân sự Hy-La.[15] Phân cấp sĩ quan trong các Quân đoànCác cấp bậc sĩ quan này chủ yếu hình thành từ cuộc cải cách của Marius (104 TCN) đến cải cách của Diocletian (290). Sĩ quan cao cấp
Sĩ quan trung cấp
Sĩ quan cấp thấp / Hạ sĩ quan
Những binh lính có vị trí đặc biệt
LươngTừ thời Gaius Marius, lính lê dương có mức lương cơ bản là 255 denarius[19] một năm. Đến thời của Hoàng đế Domitian là 300 denarius (nhưng không rõ kéo dài trong bao lâu). Bất chấp ảnh hưởng của nạn lạm phát nghiêm trọng vào thế kỷ thứ 2[20] lương cơ bản vẫn không được tăng, mãi đến khi hoàng đế Septiminus Severus (trị vì từ năm 193 đến 211), lên ngôi, ông mới tăng lên thành 500 denarius một năm. Ngoài lương, người lính còn có thể có thêm thưởng từ số của cải cướp được khi chinh chiến[21] Tất cả các lính lê dương khi kết thúc thời gian trong quân ngũ được trợ cấp một lần (gọi là praemia) 3.000 denarius (thời của Augustus) và/hoặc một mảnh đất trồng trọt tốt[22]. Đến thời của Hoàng đế Caracalla, lương cơ bản tăng lên 5.000 denarius.Ngoài ra những đại đội trưởng cũng sẽ được thưởng thêm 1.000 thưởng nếu chiến đấu tốt trong những trận thắng. Biểu tượngTừ năm 104 TCN trở đi, mỗi quân đoàn có một con đại bàng gọi là Aquila làm biểu tượng. Nó có ý nghĩa như quân kỳ và do một người lính giữ quân kỳ (aquilifer) mang. Bị mất biểu tượng được coi là nỗi ô nhục lớn lao [23][24] và thường dẫn đến việc giải thể cả quân đoàn. Trong Chiến tranh xâm lược xứ Gaule, Julius Caesar đã miêu tả nỗi sợ hãi của việc mất biểu tượng Aquila tác động đến binh lính như thế nào trong cuộc xâm lược Britainia lần thứ nhất vào năm 55 TCN: trong khi quân của Caesar còn do dự chưa muốn rời chiến thuyền để đổ bộ vào Britons, người lính giữ quân kỳ của Quân đoàn X (Lê dương X Gemina) đã nhảy khỏi thuyền cùng với con đại bàng và tiến thẳng về phía đối phương. Những đồng đội của anh ta, trước nỗi sợ hãi vì điều ô nhục đã "đồng lòng cùng nhảy xuống thuyền" khiến cho tất cả binh lính trên những chiếc thuyền khác đều làm theo.[25] Cùng với sự ra đời của Đế quốc La Mã, các quân đoàn lại có thêm sự ràng buộc đối với Hoàng đế: mỗi quân đoàn đều có một sĩ quan nữa gọi là (imaginifier), mang một cây gậy với hình ảnh hoặc tượng (imago) của hoàng đế - đấng giáo trưởng tối cao (pontifex maximus). Mỗi quân đoàn còn có thêm một binh sĩ gọi là vexillifer mang phiên hiệu (vexillum hoặc sugnum) với tên và huy hiệu của quân đoàn khắc trên một tấm biển. Nếu những đơn vị của một quân đoàn được phối thuộc quân đoàn khác thì nhóm quân bổ sung sẽ chỉ mang theo phiên hiệu chứ không mang theo cả biểu tượng và họ được gọi là các vexillatio (hay vexillationes). Phiên bản thu nhỏ của phiên hiệu đặt trên một cái đế bạc đôi khi được tặng cho các sĩ quan như huy hiệu ghi nhận công trạng của họ khi nghỉ hưu hoặc thuyên chuyển sang quân đoàn khác. Dân thường cũng có thể được tặng thưởng một cây tên không có mũi nếu tích cực giúp đỡ quân đội. Khẩu hiệu"S.P.Q.R" hay Senatus Populusque Romanus (Viện Nguyên lão và nhân dân La Mã), khẩu hiệu này được khắc dưới con đại bàng Aquila, biểu tượng của quân đoàn. Có thể hiểu câu khẩu hiệu này là vì Viện Nguyên lão và nhân dân La Mã hay Viện Nguyên lão và nhân dân La Mã luôn ở sau chúng ta. Cách vận hành của một Lê dương La Mã
Nơi đóng quân và sở chỉ huyThông thường binh lính của quân đoàn đóng quân gần sở chỉ huy trong doanh trại có tường gỗ và đôi khi là tường đá bao quanh. Mỗi quân đoàn đóng tại một địa bàn, họ chỉ rời khu vực đó khi vị tướng đứng đầu ra lệnh và tuy không nhất thiết nhưng thường phải được sự đồng ý của Viện Nguyên lão hay Hoàng đế vì nếu chuyển quân một cách tuỳ tiện dễ bị kết tội bạo loạn. Tuyển mộMột người muốn trở thành lính Lê dương đầu tiên phải là Công dân La Mã, tuy nhiên ở miền Đông thì có thể được trao quyền công dân khi được tuyển mộ. Những người được thu nhận vào quân đội phải khoảng 17 đến 22 tuổi và phải phục vụ trong quân đội nhiều hơn 20 năm. Tất cả những người lính đều không được kết hôn tuy nhiên một số cuộc hôn nhân đã diễn ra trong bí mật. Nếu được chấp nhận gia nhập quân ngũ, anh ta sẽ được nhận một khoản tiền để có thể đi đến nơi quân đoàn mà mình sẽ phục vụ đóng quân. Khi tới doanh trại, tân binh sẽ đọc lời thề quân nhân rồi được xếp vào một đại đội. Lời tuyên thệ này sẽ được đọc lại vào mỗi ngày đầu tiên của năm mới.[26] Các loại quân trợ chiến thường không phải là công dân La Mã và được tuyển mộ từ những vùng bị chinh phục hoặc đồng minh.[27]. Lính công binh thì được lấy từ thợ thủ công thành thị. Ngoài ra, trong các quân đoàn luôn có lính đánh thuê tuyển dụng gần nơi đóng quân khi có nhu cầu. Các lực lượng phục dịch được bổ sung từ các nô lệ địa phương hoặc tù binh. Huấn luyệnCác quân đoàn thường chỉ huấn luyện Lính Lê dương, các loại quân khác được huấn luyện ở các trường địa phương. Việc huấn luyện thực hiện ngay tại nơi đóng quân. Binh lính được huấn luyện các kỹ năng chủ yếu sau:[28] [29]: Bơi lộiMọi lính mới đều phải biết bơi, đó là kỹ năng rất cần thiết nếu trên đường hành quân gặp sông mà không có cầu hoặc sông bất ngờ dâng nước và chảy xiết do mưa. Ngoài ra bơi lội còn hữu ích trong sinh hoạt hàng ngày như tắm rửa. Không những chỉ có lính lê dương mà kể cả lính trợ chiến, kỵ binh, nô lệ, tạp dịch...cũng được huấn luyện để sử dụng trong trường hợp cần thiết. Đánh kiếmTất cả lính La mã đều phải tập đánh kiếm với một thanh kiếm gỗ nặng gấp đôi kiếm thật (Gladius), điều này giúp cho anh ta có thể sử dụng kiếm thật khi giáp chiến một cách nhanh nhẹn, mạnh mẽ và có độ chính xác cao hơn. Ngoài cách sử dụng kiếm, họ phải nắm vững các kỹ năng di chuyển: tiến, lùi và tận dụng mọi cơ hội để hạ đối thủ. Tập kiếm gắn liền với tập sử dụng khiên và một điều tối quan trọng phải ghi nhớ là "không được sơ hở khi tìm cách đâm đối phương"[30]. Người La Mã thường hay khuyến khích binh lính đâm thay vì chém. Động tác đâm thực hiện nhanh chóng hơn trong khi khả năng sát thương tương đương với chém. Một lý do khác là khi đâm, binh lính có thể phòng thủ phần cơ thể đằng trước tốt hơn chém. Bắn cung, ném đá và phóng laoNgoài đánh kiếm, tân binh được huấn luyện cách sử dụng cung, ném đá và phóng lao. Phóng lao là kỹ thuật chiến đấu rất quan trọng vì cách đánh của lính lê dương thường là ném lao rồi rút gladius xông vào giáp chiến (khi ra chiến trường một lính lê dương thường mang ít nhất hai và đôi khi tới năm ngọn lao gắn trên khiên). Lao sử dụng khi huấn luyện cũng nặng hơn lao dùng khi đánh trận. Ngoài ra tất cả còn phải được tập kỹ năng ném đá bằng dây (sling), vì nó tương đối dễ dàng nên việc huấn luyện không được thực hiện kỹ lưỡng lắm. Tất cả quân đội cổ đại đều có loại quân ném đá, La Mã cũng không phải là ngoại lệ và nó tỏ ra rất hữu dụng trong một số trận đánh.[31] Những người phù hợp được huấn luyện nâng cao về bắn cung. Tất cả các kỹ năng này sẽ trở nên rất quan trọng, thậm chí có ý nghĩa sống còn trong nhiều trường hợp cả trong phòng thủ lẫn tấn công, đặc biệt là lúc không tìm ra vũ khí phù hợp... Khuân vácNhững kỹ năng quan trọng khác mà cả tân binh lẫn cựu binh đều phải thường xuyên luyện tập chính là chất xếp, bốc dỡ đồ đạc trên lưng la và ngựa, trong huấn luyện, người ta sử dụng ngựa gỗ. Nhiều trận chiến được quyết định bằng tốc độ bố dỡ quân trang để chuẩn bị của binh lính. Ngoài ra cách đóng gói, xếp dỡ quân trang quân dụng cũng góp phần nâng cao tốc độ hành quân. Trọng lượng thông thường một người lính phải mang là 22 – 27 kg quân trang chưa kể áo giáp, vũ khí, khiên mang trên người trên suốt cuộc hành quân. Điều này khiến cho trong các cuộc hành quân khó khăn, như là đi qua một dãy núi hẹp chẳng hạn, quân đội không bị phụ thuộc vào các phương tiện chuyên chở khác đồng thời cải thiện tốc độ hành quân vì có thể tách rời bộ phận hậu cần. Do thường xuyên phải mang nặng khi tập luyện nên việc này không quá khó khăn đối với lính lê dương La Mã. KhácMột số kỹ năng khác cũng quan trọng mà lính lê dương cũng phải luyện tập là sắp xếp đội hình (trong đó có đội hình mai rùa - Testudo formation để chống lại sự tấn công bằng cung tên nổi tiếng của La Mã), cách di chuyển, hành quân, xây dựng doanh trại...trong mọi thời tiết và bất kể ngày đêm. Gian khổ và khó khăn, La Mã yêu cầu mọi người lính khi ra trận tiền không những chỉ có lòng can đảm cùng kỹ năng chiến đấu tốt mà còn phải trở nên toàn diện, láu cá và một chút thông minh. Kỷ luậtKỷ luật của các quân đoàn La Mã nói riêng và cả quân đội La Mã nói chung vô cùng khắc nghiệt. Quy tắc đề ra luôn phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt, binh lính vi phạm sẽ bị trừng phạt rất nặng. Nhiều lính Lê Dương rất sùng bái nữ thần kỷ luật Disciplina, lẽ sống của họ là cần kiệm, nghiêm khắc với bản thân và lòng trung thành tuyệt đối. Sau đây là một số hình phạt dành cho người vi phạm kỷ luật[28][29][32]: Hình phạt nhỏ
Hình phạt lớn
KhácCách đọc tên một Quân đoànTên của một Quân đoàn được đặt theo nhiều cách nhưng thường theo công thức chung như sau:[33]:
1Số thứ tự của quân đoàn để phân biệt với các quân đoàn khác (nhưng không độc nhất). Tất cả các quân đoàn ngay khi mới ra đời đều chỉ có số thứ tự, chưa có các danh hiệu tiếp theo sau ví dụ như Legio I Adiutrix pia fidelis lúc mới thành lập chỉ có tên là Legio I
Như vậy, "Legio I Augusta, Germanica" có thể gọi là "Quân đoàn I Germanica Cao quý".[34] Tuy nhiên, cách đặt tên trên có thể có nhiều ngoại lệ, tên gọi của một quân đoàn cũng không cố định mà có thể thay đổi theo từng thời kỳ. Nhận địnhNguyên nhân thành công
Nguyên nhân thất bạiTác giả Hugh Elton trong bài viết: "Sự sụp đổ của Đế chế La Mã - Trên góc độ quân sự" đã chỉ ra những nguyên nhân thất bại của quân La Mã như sau[39]:
Tuy nhiên, nếu chỉ dùng một lý do để nói về sự thất bại của những quân đoàn La Mã trong giai đoạn cuối, có thể kết luận đó là sự lãnh đạo kém cỏi chứ không phải là mô hình tổ chức. Xem thêm
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoàiWikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Binh đoàn La Mã.
|