Theo tài liệu của Chính lượng bộ, phân nhánh chính của Độc Tử bộ, khoảng 200 năm sau khi Phật nhập diệt, trưởng lão Độc Tử đã triệu tập kỳ kết tập thứ ba, mà kết quả của nó đã hình thành nên Độc Tử bộ. Cũng theo tài liệu của Chính lượng bộ, tên của vị trưởng lão được ghi là Vātsīputra, còn căn cứ vào các bi ký được khai quật, tên ngài là là Vāchiputa[2].
Bản dịch Tạng ngữ Dị bộ tinh thích của Thanh Biện (Bhāvaviveka) có ghi lại các truyền thuyết khác nhau về sự phân chia các bộ phái. Trong đó, truyền thuyết thứ ba là truyền thuyết của Chính lượng bộ[8]: “Sau khi Phật nhập niết-bàn 137 năm, vào thời kỳ từ vua Nan-đà đến vua Ma-ha Bát-thổ-ma, các thánh trưởng lão đã tề tựu tại Hoa Thị thành. "Những tranh cãi đã nảy sinh trong Tăng đoàn, những người đa văn như trưởng lão Long và Kiên Ý đã giảng về Căn bản ngũ sự… do đó đã chia thành 2 nhánh.” “63 năm sau, trưởng lão Độc Tử đã tập hợp Tăng đoàn để giải quyết mọi tranh chấp và tổ chức kỳ kết tập thứ ba.” Tài liệu "Lịch sử Phật giáo Buton" cũng ghi chép những sự kiện này[9] .
Thời kỳ đầu, tông nghĩa của Độc Tử bộ hầu hết tương đồng với Nhất thiết hữu bộ qua Phát trí luận, chỉ với một số khác biệt đáng chú ý [5] .
Trong thời kỳ 18 bộ phái, khoảng 100 năm sau khi Độc Tử bộ hình thành, do cách giải thích khác biệt[11] trong “Phát trí luận” [12], bộ phái này đã phân thành 4 nhánh:
Trong đó, Chính lượng bộ phát triển nhất, dần thay thế địa vị ban đầu của Độc Tử bộ. Phần "Y thuyết luận" trong tài liệu Tam-di-để-bộ luận (Samityasastra) là chuyên luận duy nhất còn sót lại mô tả tích cực học thuyết của dòng truyền thừa Độc Tử trong thời kỳ 18 bộ phái. Tài liệu Tam pháp độ luận được xem là một luận thư giải thích kinh Phật theo quan điểm của Độc Tử bộ, hơi thiên về tín ngưỡngĐại thừa.
Tranh cãi
Đại sư Đề-bà-thiết-ma (Devaśarman, Thiên Tịch), trong Thức thân luận, xưng mình là một luận giả Tính Không, đã chỉ trích các luận giả Bổ-đặc-già-la của Độc Tử bộ, đã làm dấy lên các cuộc tranh luận liên quan về đúng sai chưa bao giờ chấm dứt.
Trong Thuyết chuyển bộ có bảo lưu bộ Thắng nghĩa Bổ-đặc-già-la, xây dựng một phương pháp vi tế và khó thực hiện để nắm bắt ngũ uẩn[15]. Một số học giả tin rằng học thuyết này có thể bị ảnh hưởng bởi học thuyết về Bổ-đặc-già-la của Độc Tử bộ.
Theo Tứ Đế luận của Bà-tẩu-bạt-ma (Vasavarman) và bản dịch Dị bộ tông luân luận của Huyền Trang, các tăng sĩ Độc Tử bộ tin rằng trong số tất cả các hình thức, có những hình thức tồn tại tạm thời, chẳng hạn như một phần của sắc pháp, cũng có những cái biến mất trong chốc lát (sát-na, ksana), chẳng hạn như tâm, trạng thái tinh thần. Vì thế, Độc Tử bộ không thừa nhận thuyết “mọi hành động đều bị tiêu diệt trong sát-na” của Hóa địa bộ[16], Nhất thiết hữu bộ[17] và Ẩm Quang bộ.
Ảnh hưởng
Độc Tử bộ được xem là một trong những bộ phái hiếm hoi chủ trương “hữu nhân ngã”[18] nên thường bị các bộ phái khác chỉ trích. Trong một số tài liệu Đại thừa, Trí Di và những người khác thậm chí còn gọi họ là những kẻ "ngoại đạo dựa Phật"[19] .
^ abMaythee Pitakteeradham (2006). “犢子部の成立と名称について”(PDF). 世界宗教學刊. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2020. そうしたことを考えて、指導者たちの中に、Vāchiputaという人物はVātsīputrīyā(犢子部)の開祖であることが推測できる。これは、 正量部の文献によれば、犢子部の開祖はVāts-īputraという高僧であるということと一致する。 ……「Sārnāth 石柱銘文(Lüders, 923) 〔A.D.IV〕Sammitiya とVātsīputrakaの所有。
^佛光大辭典. “犢子部”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2020. 另據日本學者赤沼智善研究,此部諸師為十六大國中筏蹉國(梵 Vatsa)之比丘,故此部之梵名作 Vatsī-putriyā(意謂筏蹉之弟子);又此部之巴利名 Vajji-puttaka,或係由 Vatsa 與第二次經典結集時之跋耆(巴 Vajji)混同而成者。
^ ab迦多衍尼子《阿毘達磨發智論》:「何世第一法?答:若心心所法,為等無間,入正性離生,是謂世第一法。有作是說:若五根,為等無間,入正性離生,是謂世第一法。」 《大毘婆沙論》:「有作是說:『若五根,為等無間,入正性離生。是謂世第一法。』問:誰作此說?答:是舊阿毘達磨者說。……有說:此是犢子部宗,彼部師執:世第一法,信等五根,以為自性。」 Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “japdm” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác