† Tỷ lệ phần trăm được ước tính dựa trên khuyến nghị Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành,[1] ngoại trừ kali, được ước tính dựa trên khuyến nghị của chuyên gia từ Học viện Quốc gia.[2]
Đậu Cranberry còn có tên là đậu Roman, đậu romano, đậu saluggia[3], đậu rosecoco,[4] Tên saluggia được đặt sau khi thị trấn Saluggia ở phía bắc nước Ý bắt đầu trồng đậu Cranberry vào những năm đầu thế kỷ 20.
Phân bố
Đậu Cranberry được trồng đầu tiên ở Colombia với tên cargamanto[5]
Đặc điểm
Giống cây trồng mới của đậu Cranberry, 'Crimson', có màu lốm đốm nâu nhạt sáng với màu nâu sẫm hạt dẻ (maroon) và có khả năng chống lại virus cây trồng cũng như có năng suất cao (high yield).[6]
Đậu Cranberry nhìn thoáng qua bề ngoài trông giống đậu Pinto, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy lớn hơn đậu Pinto và có những đốm màu to hơn trên nền trắng kem.
^National Academies of Sciences, Engineering, and Medicine; Health and Medicine Division; Food and Nutrition Board; Committee to Review the Dietary Reference Intakes for Sodium and Potassium (2019). Oria, Maria; Harrison, Meghan; Stallings, Virginia A. (biên tập). Dietary Reference Intakes for Sodium and Potassium. The National Academies Collection: Reports funded by National Institutes of Health. Washington (DC): National Academies Press (US). ISBN978-0-309-48834-1. PMID30844154.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^“Storia legumi (part 2)”. Provincia di Asti. tr. 108. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2016.