Trên những chiếc lớp Atlanta, toàn bộ dàn pháo chính 5 in (127 mm) đều là những khẩu pháo đa dụng (DP: dual-purpose), có thể sử dụng chống lại cả mục tiêu trên không lẫn trên mặt, bắn được đầu đạn pháo công phá, đạn xuyên thép và đạn kíp nổ tiếp cận chống máy bay. Ngoài ra, lớp Atlanta cũng là lớp tàu tuần dương Mỹ duy nhất trong Thế chiến II được trang bị ống phóng ngư lôi.[1]
Những chiếc trong lớp Atlanta có vỏ giáp yếu, khiến chúng trở thành những hạm tàu nổi chiến đấu kém so với tàu tuần dương hạng nhẹ tiêu biểu. Ở góc độ vũ khí, lớp Atlanta gần giống một tàu khu trục, khi được trang bị cỡ pháo 5 in (130 mm) thay vì 6 in (152 mm) trên một tàu tuần dương hạng nhẹ; nhưng với chiều dài trên 500 ft (150 m) kết hợp với dàn pháo chính đến 16 khẩu 5 in (127 mm) (giảm xuống còn 12 đối với những chiếc trễ hơn trong lớp), chúng được xem là những tàu tuần dương hạng nhẹ, trong khi tàu khu trục tiêu biểu vào thời đó chỉ mang năm hoặc sáu khẩu pháo 5 in (130 mm). Mặc dù có vỏ giáp yếu hơn so với tàu tuần dương hạng nhẹ, chúng vẫn có vỏ giáp dày hơn so với tàu khu trục, vốn được cho là được bảo vệ kém.[2]
Lớp Atlanta được trang bị tám tháp pháo 5 in (130 mm) nòng đôi, bố trí trên một cấu hình độc đáo; gồm ba tháp pháo phía trước và ba tháp pháo phía sau ngay trên trục dọc và với chiều cao tăng dần theo kiểu bắn thượng tầng, cung cấp một dáng vẽ đối xứng với một khoảng trống trong cấu trúc thượng tầng; ngoài ra, phía sau còn có một tháp pháo mỗi bên mạn, lên tổng cộng 16 tháp pháo 5 inch. Góc bắn của các khẩu đội phía trước và phía sau giao nhau với một góc rất giới hạn, cho phép nó có một góc bắn 60° cho mọi tháp pháo bắn qua mạn, ngoài trừ các tháp pháo mạn. Vì chúng chỉ có thể xoay các khẩu pháo trong phạm vi góc bắn hẹp đó, khả năng đối đầu với các mục tiêu hạm nổi bị giới hạn. Dù sao, các góc bắn phù hợp lý tưởng để đối đầu máy bay, với tối thiểu sáu khẩu pháo sẵn sàng ở mọi góc độ.[1]
Juneau đã có mặt trong Trận chiến quần đảo Santa Cruz vào ngày 26 tháng 10. Ngày 24 tháng 10, lực lượng đặc nhiệm của Hornet kết hợp với nhóm của Enterprise để tái lập Lực lượng Đặc nhiệm 61 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Thomas C. Kinkaid. Lực lượng này bố trí về phía Bắc quần đảo Santa Cruz nhằm ngăn chặn các đơn vị đối phương có ý định tiếp cận Guadalcanal. Cùng lúc đó, lực lượng Nhật tại Guadalcanal mở được một cửa đột phá dọc theo đồi Lunga trong đêm 25 tháng 10, rõ ràng là một dấu hiệu báo trước các đơn vị tàu nổi đối phương sẽ tiến đến hòn đảo.[4]
Sáng sớm ngày 26 tháng 10, máy bay từ tàu sân bay Mỹ phát hiện đối phương và lập tức tấn công, gây hư hại cho hai tàu sân bay, một thiết giáp hạm và ba tàu tuần dương. Nhưng cùng lúc đó, các tàu chiến Mỹ cũng chịu áp lực nặng; không lâu sau 10 giờ 00, khoảng 27 máy bay đối phương tấn công Hornet. Cho dù Juneau và các tàu hộ tống khác dựng nên một hàng rào hỏa lực phòng không hiệu quả vốn đã bắn rơi 20 máy bay tấn công, Hornet bị hư hại nặng và bị đánh chìm ngày hôm sau. Sau giữa trưa, Juneau tách khỏi nhóm hộ tống của Hornet hướng đến Enterprise đang bị bao vây cách đó nhiều dặm. Bổ sung vào thành phần hỏa lực phòng không, Juneau trả giúp vào việc đánh trả bốn đợt không kích nhắm vào lực lượng này, và đã bắn rơi 18 máy bay Nhật.[4]
Chiều tối hôm đó, lực lượng Mỹ rút lui về hướng Đông Nam. Cho dù phải trả giá đắt, cuộc chiến này, kết hợp với thắng lợi của lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bộ tại Guadalcanal, đã đẩy lui ý định phản công của quân Nhật tại khu vực Solomon. Hơn nữa, việc hai tàu sân bay chủ lực của Hải quân Nhật bị hư hại đã làm hạn chế đáng kể khả năng hỗ trợ trên không của đối phương trong trận Hải chiến Guadalcanal diễn ra sau đó.[4]
Trận hải chiến Guadalcanal
Ngày 8 tháng 11, Juneau rời Nouméa, New Caledonia như một đơn vị của Lực lượng Đặc nhiệm 67 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Richmond K. Turner hộ tống đoàn tàu vận tải tăng cường cho Guadalcanal. Họ đến nơi vào sáng sớm ngày 12 tháng 11, và Juneau chiếm lấy vị trí bảo vệ chung quanh các tàu vận chuyển và tàu chở hàng. Việc chất dỡ được tiến hành suôn sẽ cho đến 14 giờ 05 phút, khi 30 máy bay Nhật tấn công nhóm tàu chiến Mỹ. Hỏa lực phòng không rất có hiệu quả, chỉ riêng Juneau đã bắn rơi sáu máy bay ném ngư lôi đối phương; số ít máy bay Nhật còn lại bị máy bay tiêm kích Mỹ tấn công; chỉ có một chiếc máy bay ném bom chạy thoát. Cuối ngày hôm đó, Lực lượng Tấn công Mỹ bao gồm các tàu tuần dương và tàu khu trục rời khu vực Guadalcanal sau khi có báo cáo về một lực lượng lớn tàu nổi đối phương đang hướng đến hòn đảo. Đến 01 giờ 48 phút ngày 13 tháng 11, Lực lượng Hỗ trợ Đổ bộ tương đối yếu của Chuẩn đô đốc Daniel J. Callaghan đụng độ với lực lượng đối phương, bao gồm hai thiết giáp hạm, một tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục.[4]
Do thời tiết xấu và việc thông tin liên lạc lộn xộn, trận chiến diễn ra trong hoàn cảnh tối đen và hầu như trong tầm bắn trực tiếp khi tàu chiến của cả hai phía xen lẫn vào nhau. Trong trận đánh, Juneau trúng một quả ngư lôi bên mạn trái làm nó nghiêng nặng và chết đứng giữa biển, buộc phải rút lui. Trước giữa trưa ngày 13 tháng 11, Juneau cùng với hai tàu tuần dương khác bị hư hại trong trận chiến Helena và San Francisco rời khu vực Guadalcanal quay trở về Espiritu Santo để sửa chữa. Juneau di chuyển chỉ với một chân vịt, giữ khoảng cách 730 m (800 yd) phía sau bên mạn phải chiếc San Francisco bị hư hỏng nặng. Nó bị ngập 4 m (13 ft) phía mũi, nhưng vẫn có thể duy trì tốc độ 13 kn (24 km/h; 15 mph). Vài phút sau 11 giờ 00, hai quả ngư lôi được phóng ra từ tàu ngầm Nhật I-26, dự định nhắm vào "San Francisco", nhưng đã băng qua phía trước chiếc tàu tuần dương hạng nặng. Một quả bị trượt, quả kia đánh trúng vào Juneau ngay chỗ nó từng bị đánh trúng trong trận chiến đêm. Một vụ nổ dữ dội xảy ra; Juneaugãy làm đôi và biến mất chỉ trong vòng 20 giây. Lo sợ những đợt tấn công khác từ I-26, Helena và San Francisco tiếp tục hành trình mà không tìm cách cứu vớt những người sống sót. Mặc dù con tàu bị chìm với tổn thất nhân mạng rất lớn, có hơn 100 thủy thủ vẫn sống sót sau khi tàu chìm. Họ bị bỏ lại tự chống chọi giữa biển khơi trong tám ngày cho đến khi máy bay cứu nạn đến nơi. Trong khi chờ đợi được giải cứu, tất cả chỉ trừ 10 người đã thiệt mạng vì nhiều lý do kể cả do bị cá mập tấn công, trong đó có năm anh em Sullivan.[4][5]
Xác tàu đắm của Juneau được đội thám hiểm của Paul Allen trên tàu RV Petrel tìm thấy vào ngày 17 tháng 3 năm 2018. Con tàu nằm ở độ sâu 4.200 m (13.800 ft) ngoài khơi bờ biển quần đảo Solomon, bị vỡ thành nhiều mảnh lớn.[7][8][9]
Tham khảo
Ghi chú
^Vào lúc này Alaska chưa trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ.
Holbrook, Heber A. (1997). The loss of the USS Juneau (CL-52) and the relief of Captain Gilbert C. Hoover, commanding officer of the USS Helena (CL-50) (Callaghan-Scott naval historical monograph). Pacific Ship and Shore-Books. ASINB0006QS91A.